Chương 4: Lời cầu nguyện và sự giả dối
Sau khi trở về từ đảo Tokishima, tôi đã lao đầu vào làm thêm. Trong khi đó, Madoka đã gộp cả ngày nghỉ lễ Obon và ngày nghỉ phép của công ty để về thị trấn Kuratsu. Kei đi du lịch nước ngoài với gia đình, còn Chiharu thì về quê ở Akita.
Vốn dĩ cũng không có việc gì làm, nên khi nghe rằng Alphard đang thiếu người trong dịp lễ Obon, tôi cũng đăng ký lịch làm mỗi ngày. Những lúc rảnh rỗi ban ngày, tôi cũng lướt trên mạng tìm mấy công việc thời vụ. Thay vì ngồi không thì vận động chân tay vẫn hơn, và tiết kiệm tiền thì không bao giờ là thừa cả.
Gần cuối kỳ nghỉ lễ Obon, anh Ozaki đã quay trở lại Alphard sau khi về quê ở Yokohama. Chuyện của anh Kazuki vào lần trước khiến tôi thấy hơi khó xử trước anh Ozaki, nhưng khi vừa gặp nhau vào hôm đó, anh Ozaki đã đặt tay lên vai tôi vỗ vỗ mấy cái với khuôn mặt đầy hoài niệm.
“S… Sao thế ạ?”
“Tự dưng thấy nhớ ghê. Sendai tuyệt thật đấy, anh muốn ở đây mãi cơ.”
Nhìn bộ dạng chán chường và thở dài thườn thượt của anh Ozaki, có vẻ như chuyến hồi hương lần này của anh ấy đã gặp không ít vất vả. Dù vậy, người sư phụ chu đáo của tôi vẫn không quên mang quà cho mọi người ở Alphard, và tôi cũng được chia phần.
“Đây là xá xíu, mặc dù món này đã quá phổ biến rồi. Nó ăn kèm với cơm được đấy.”
“Cảm ơn anh ạ, em thích món này lắm.”
“Còn nữa, cái này cho chị Madoka. Shochu khoai lang ở Yokohama, chị ấy bảo mình rất thích shochu.”
“… Anh Ozaki, trả lời thật lòng nhé. Anh nghĩ sao về việc trở thành anh rể của em?”
“Yên tâm đi, tình tiết để anh trở thành anh rể của em tạm thời chưa được triển khai đâu.”
“Tạm thời ạ…!?”
Vui mừng vì đã lâu không gặp anh Ozaki, nên sau khi kết thúc công việc, chúng tôi quyết định đi đến quán ăn gia đình mở 24/24 để trò chuyện. Anh Ozaki cũng muốn hỏi han về tình hình ở đảo Tokishima.
“Anh Takatsu vẫn khỏe chứ?”
“Em cũng không biết nữa. Anh ấy là một người cực kỳ khó gần, nhưng thật ra là là một người rất tốt bụng.”
“Haha, vậy là vẫn khỏe rồi.”
Trong lúc tán gẫu những chuyện không đâu, tôi đã canh thời điểm để hỏi điều tôi muốn. Khi câu chuyện về đảo Tokishima bỗng dừng lại, tôi liền hỏi bâng quơ.
“Anh Kazuki thì sạo ạ, anh ấy vẫn khỏe chứ?”
Anh Ozaki nhíu mày, đáp lại “Ừm”.
“Vẫn như mọi khi thôi. Cậu ấy đang bận rộn với công việc gia sư. Ngày mai cậu ấy sẽ lên đường đi khảo sát thực địa gì đó với giáo sư hướng dẫn đấy.”
“Vậy ạ”, tôi lẩm bẩm, tôi muốn nói thêm gì đó nhưng không biết mình nên nói gì. Tôi uống một ngụm ly nước trái cây, đá tan đã làm nó trở nên nhạt tuếch.
Hai ngày sau, Madoka cũng đã quay trở về từ Sendai. Một thùng các-tông chứa đầy gạo, rau củ và đồ khô từ quê cũng được gửi đến ngay sau đó.
“Sao cha mẹ cứ thích gửi cả đống đồ cho con cái ở xa quê vậy trời.”
“Tại họ yêu thương chị chứ sao, con gái rượu mà.”
Đó là câu nói không hề có bất cứ hàm ý nào, nhưng Madoka bỗng hóa nghiêm túc, trong khi mới đây còn vui vẻ tận hưởng món shochu của anh Ozaki. Chị ấy gọi tên tôi bằng một giọng trầm hẳn xuống.
“Souta. Mấy hôm đầu đi làm thì chị hơi bận, khi nào ổn định xong xuôi rồi hai chị em mình sẽ đi ăn một bữa, sẵn nói chuyện một chút.”
“… Nói chuyện gì ạ?”
“Rất nhiều chuyện.”
Vẻ mặt của Madoka nghiêm túc hơn bao giờ hết, khiến tôi bất giác gật đầu theo. Đúng như lời chị nói, Madoka sau kỳ nghỉ bận tối mặt tối mũi nên khi về tới nhà lúc nửa đêm là lăn đùng ra giường ngủ. Nhìn Madoka kiệt sức đến mức chẳng còn hơi đâu để mà mắng chửi gã trưởng phòng như mọi khi, tôi thấy lo lắng nên đã tìm trên mạng những món ăn bồi bổ để nấu cho chị ấy.
“Souta, đây là bánh dứa. Quà lưu niệm từ Đài Loan.”
“Của tớ là bánh gạo Namahage, rồi cả bánh bơ nữa. Cả hai đều là đặc sản của Akita, ngon lắm đấy.”
Kei và Chiharu cũng đã quay trở về Sendai, thế là chúng tôi mỗi người mang theo nhạc cụ của mình, tụ tập tại nhà Kei ở Kita-Sendai. Trong buổi trao đổi quà, tôi đưa cho họ gói cà-ri ốc ở đảo Tokishima. Cả Kei và Chiharu đều ngạc nhiên hỏi:
“Đảo Tokishima nằm ở đâu vậy?”
“Souta, cậu đi tới nơi xa xôi như thế để làm gì vậy?”
Tôi chỉ trả lời mơ hồ rằng đã có rất nhiều chuyện xảy ra.
“Còn nữa, hôm trước tớ có gặp anh Kazuki. Anh ấy nói là có quen một tay piano, rồi bảo nếu được thì sẽ giới thiệu người đó cho chúng ta. Hình như là một bạn nữ bằng tuổi mình.”
Khi tôi kể lại lời đề nghị của anh Kazuki trên chuyến phà trở về từ đảo Tokishima, cả Kei và Chiharu đều có vẻ bất ngờ.
“Vậy sao… Nếu là con gái thì chắc Chi-chan cũng bớt lẻ loi nhỉ…”
“Ừm. Với lại nhóm tứ tấu sẽ có nhiều bản nhạc để chơi hơn.”
Dù miệng nói những lời tán thành, nhưng cả Kei và Chiharu đều tỏ ra ngập ngừng. Tôi hiểu cảm giác của hai người họ, có thêm đồng đội là điều đáng mừng, nhưng nếu đó là anh Kazuki thì thật tốt biết bao. Chúng tôi yêu quý anh Kazuki, anh ấy là người giúp đỡ chúng tôi vào lúc khốn đốn nhất. Vì vậy, chúng tôi muốn tiếp tục được kết nối với anh ấy qua âm nhạc.
Thế nhưng, tôi biết đó là điều không thể nữa rồi. Không nỡ nói thẳng ra với họ, tôi lái sang câu chuyện khác.
“Trước khi quyết định có nên kết nạp thêm thành viên mới, sao chúng ta không xác định thử hướng đi sắp tới của nhóm xem? Đại khái thôi cũng được. Dù có được giới thiệu thêm thành viên mới, nhưng đến chính chúng ta còn không biết nên làm gì thì cũng khó lắm.”
“À, đúng nhỉ. Ừ, chí phải.”
“Cậu nói đúng lắm, Souta…”
Khi chúng tôi bàn bạc về những điều cơ bản như địa điểm luyện tập, thời gian luyện tập, ngân sách cho bản nhạc, câu chuyện dần trở nên sôi nổi hơn về định hướng hoạt động của nhóm: “À, đàn anh cùng ký túc xá của tớ có đi làm tình nguyện ở một cơ sở nọ, nghe nói họ cũng đang tuyển tình nguyện viên về mảng âm nhạc đấy,” “A, tớ muốn đi biểu diễn tình nguyện kiểu như thế...”
Sau đó vì sợ tay nghề bị mai một, chúng tôi đã bắt đầu luyện tập các bài cơ bản. Cha của Kei là thành viên của Dàn giao hưởng Sendai, nhà cậu ấy có phòng tập cách âm và chúng tôi đã được phép sử dụng. Sau khi luyện âm giai xong, chúng tôi thử chơi lại bản nhạc đã biểu diễn tại Eki-con của The Beatles, nhưng chỉ với ba người thì quả thực vẫn thấy thiếu thốn. Với chút buồn trong lòng, chúng tôi giải tán sau khi quyết định ngày mai sẽ tập trung ở trường để luyện tập.
“Em cũng vậy, đừng chỉ nhìn về tương lai, mà cũng nên nhìn về nơi mà mình đang đứng hiện tại.”
Vừa rảo bước trên cầu bộ hành ở ga Sendai, tôi ngẫm lại những lời mà anh Kazuki đã nói. Anh Kazuki cũng đang nhìn về nơi mình đang đứng, và dựa vào đó để lựa chọn cách sống của hiện tại. Nếu vậy thì tôi cũng sẽ không để bản thân bị trói buộc vào những trải nghiệm ở tương lai nữa, mà sẽ sống cho thời gian hiện tại của mình.
Tôi sẽ không còn xem đó là những năm tháng còn lại của cuộc đời, từ giờ tôi sẽ cố gắng sống sao cho mỗi ngày thật trọn vẹn.
Vừa tự nhủ trong lòng như vậy, tôi xốc lại hộp đàn trên vai. Tôi bước xuống khỏi cầu bộ hành, đi trên con đường lớn với những tòa nhà chọc trời san sát. Đã đến giờ ăn trưa, tiện đang ở ngoài nên tôi quyết định sẽ ăn gì đó rồi mới về. Vì chiều nay sáu giờ tôi có ca làm thêm ở Alphard, sẽ phải ăn tối sớm, nên bữa trưa chỉ nên ăn gì đó nhẹ nhàng thôi.
Bình thường tôi chỉ ăn trong trường và hầu như không ăn ngoài, nên tôi vừa đi vừa chăm chú quan sát xem xung quanh có cửa hàng nào, thậm chí còn kỹ tới mức nhìn vào cả bảng hiệu của mấy tiệm có mặt bằng trong tòa nhà. Khi đi ngang qua tòa nhà khổng lồ của một ngân hàng thành phố, tôi chợt để ý thấy dòng chữ “Trường Ngôn ngữ Abel” trên bảng danh sách các đơn vị thuê mặt bằng. Đúng lúc tò mò tự hỏi liệu có cả trường ngôn ngữ bên trong tòa nhà ngân hàng ư, thì…
Cánh cửa tự động của tòa nhà mở ra, một nhóm nam nữ trò chuyện rôm rả bước ra ngoài. Có cả đàn ông phương Tây, có cả những cô gái Á Đông, nhưng tất cả đều nói tiếng Anh trôi chảy. Có lẽ họ là người của trường ngôn ngữ này. Phát âm của họ chuẩn đến mức cả đời này tôi cũng không bao giờ bắt chước được, vừa ghen tị nghĩ thầm trong lòng tôi vừa đưa mắt theo dõi họ lướt qua.
Tim tôi đập thịch một tiếng.
Trong nhóm đó, có một đàn ông mặc bộ vest chỉnh tề, mái tóc được chải chuốt lịch lãm. Anh ta có khuôn mặt đầy khí chất như một diễn viên nước ngoài và đôi mắt xanh biếc như sapphire.
Tại sao chú ấy lại ở đây.
“Rei… Mister Howington!”
Người phụ nữ tóc đen trong nhóm bất ngờ quay lại nhìn tôi. Người đàn ông với đôi mắt xanh biếc cũng dừng bước xoay người lại, nhìn tôi với vẻ mặt kinh ngạc. Nhưng tôi còn kinh ngạc hơn chú ấy, sững sờ, bối rối, và hoàn toàn không thể tin nổi.
“Xin lỗi, nhưng cậu có thể cho tôi biết tên chứ? Có vẻ như tôi đã quên mất chúng ta gặp nhau ở đâu rồi.”
Rei nói bằng giọng nói trầm ấm đầy phong thái, khóe mắt chú ấy lộ ra những vết nhăn hiền hậu. Trông anh có phần trẻ hơn trong trí nhớ của tôi, nhưng ngoài điều đó ra thì mọi thứ đều y hệt so với hồi đó. Tôi nghẹn lời, nuốt nước bọc, trấn tĩnh bản thân và hít một hơi thật sâu.
“… Xin lỗi vì đột ngột gọi anh lại. Em tên là Hasekura Souta, chúng ta đã gặp nhau rất lâu trước đây, anh đã dạy tiếng anh cho em khi em vẫn còn rất nhỏ.
“Vậy sao, chào cậu Hasekura Souta.”
Rei vẫn giữ nụ cười lịch thiệp, nhưng trong đôi mắt tựa như châu báu ấy thoáng một vẻ bối rối. Cũng phải thôi, tôi đã gặp chú ấy vào hồi tiểu học, nhưng mà là vào năm 2070, một tương lai xa xôi hàng chục năm mà chú ấy sẽ chẳng hề biết được.
“Xin lỗi vì đã gọi anh lại ạ. Chỉ là em thấy hoài niệm… Ừm… Vợ anh vẫn khỏe chứ?”
Đôi mắt xanh biếc của Rei chợt trĩu xuống.
“Cậu cũng biết về vợ tôi sao… Thực ra, cô ấy đã mất một năm trước rồi.”
Cảm giác tội lỗi đắng ngắt như dịch vị trào ngược lên cổ họng tôi. Khi tôi lẩm bẩm lời chia buồn “I’m so sorry” mà chính chú ấy đã dạy tôi, Rei đáp lại “Thank you” bằng giọng nói đầy ấm áp.
“Misako đã sống trọn vẹn cho đến tận giây phút cuối đời, cô ấy không còn điều gì hối tiếc. Nhân tiện, tôi thực sự không thể nhớ ra đã gặp cậu ở đâu. Cậu nói tôi dạy tiếng Anh cho cậu, vậy cậu là học viên của lớp trẻ em sao? Không chỉ tôi mà cả Misako cũng dạy cậu ư?”
“… Không phải ạ, chẳng qua chúng ta có nói chuyện riêng một chút. Em xin lỗi, anh đừng bận tâm. Với lại, cho em hỏi một câu có hơi kỳ cục được không?”
“Ừm, điều gì vậy?”
“Năm nay anh mấy tuổi ạ?”
Rei tròn mắt như thể bị hỏi một câu bất ngờ.
“Hai tháng trước tôi đã bước sang tuổi 46… Nhưng sao cậu lại hỏi?”
Sau đó, tôi không nhớ rõ mình đã nói gì nữa. Tôi cúi đầu chào trước Rei rồi nhanh chóng hòa vào dòng người đông đúc. Sau khi rẽ vào một góc phố và chắc chắn chú ấy không thể thấy tôi nữa, tôi ngồi phịch xuống bậc thềm bê tông của một bồn cây. Từ những hàng cây xung quanh, tiếng ve kêu râm ran như một dàn đồng ca đang tụng kinh. Đầu óc tôi quay cuồng, và hơi thở trở nên vô cùng khó khăn.
Tại sao, tại sao, chuyện này không thể nào xảy ra được.
Tôi nhận ra mình đang áp điện thoại lên tai, tiếng chuông tiếp tục kêu. Tiếng tim đập của chính tôi vang vọng trong tai. Tại sao, tại sao, không thể như vậy được.
“Vâng, alo?”
Khi một giọng nói có vẻ bất ngờ vang lên bên tai, môi tôi run bần bật không thể thốt nên lời.
“Alo? Hasekura?”
“… Xin lỗi ạ, vì đã đột ngột gọi cho anh. Nhưng em thực sự không hiểu chuyện gì đang xảy ra và em không biết phải làm gì ạ…”
“Sao vậy? Đã xảy ra chuyện gì ư?”
Một câu chuyện không thể tin nổi và hoàn toàn không thể xảy ra, đã xảy ra. “Cứu em với”, giọng nói khẩn khoản của tôi khàn đặc đến mức thảm hại.
Tôi xuống tàu điện ngầm trước một ga so với ga gần trường đại học mà tôi thường dùng, rồi đi bộ trong khuôn viên rộng lớn của trường được kết nối thẳng với nhà ga. Dù đang trong kỳ nghỉ hè nhưng vẫn có những sinh viên đang chạy trên sân thể dục, những nhóm người mặc vest trông như đang đi tìm việc, và cả một cô gái đang chơi guitar dưới bóng cây. Chắc là có buổi hội thảo nghiên cứu nào đó, tôi còn thấy cả những ông chú trông có vẻ uyên bác đang đi thành từng nhóm về phía tòa nhà giảng đường.
Khi đến tòa nhà câu lạc bộ mà tôi đã cùng Kei và Chiharu đến trước đây, anh Kazuki đã đứng trước cửa. Anh ấy mặc một chiếc áo sơ mi ngắn tay kẻ ca-rô, ngay khi tôi đến gần, anh ấy bỏ qua lời chào hỏi mà nói:
“Em ăn trưa chưa?”
Nghĩ lại thì ban nãy tôi định đi ăn trưa, nhưng vì cú sốc quá lớn mà tôi quên béng đi mất. Khi chậm chạp lắc đầu, anh Kazuki chìa ra chiếc túi nhựa từ cửa hàng tiện lợi và nói “Đây”. Nhìn vào trong, tôi thấy một hộp sữa giấy và bánh hấp nhân nho khô.
“Khi đói bụng, tinh thần sẽ đi xuống và chúng ta sẽ không nghĩ ngợi được gì, nên trước mắt em cứ ăn đi.”
Lồng ngực tôi thắt lại, tôi lí nhí nói lời cảm ơn. Nghĩ lại, dường như Isuzu cũng đã từng nói điều tương tự với tôi, rằng khi mệt mỏi, khi buồn bã, và khi đói bụng, chúng ta không nên suy nghĩ về những điều quan trọng.
“Ồ, hoàng tử. Chuyến khảo sát với giáo sư Hongo xong rồi hả?”
“Ừm, tớ vừa về sáng nay. Cho tớ mượn phòng Câu lạc bộ Hợp xướng một tí, nếu cần dùng thì cứ gọi tớ nhé.”
“Đã rõ. À này, nào rảnh chúng ta lại tụ tập ở chỗ cậu với Ozaki nhé?”
“Được thôi, để tớ nói với Mikiya.”
Sau khi anh Kazuki (hình như biệt danh của anh ấy là “hoàng tử”) nói chuyện với một anh chàng tóc nâu gặp ở giữa hành lang, anh Kazuki liền đi về phía cầu thang. Đó là cánh cửa ở cuối hành lang tầng trên cùng. Khi anh Kazuki mở ra, bên trong căn phòng không khí nóng ẩm tù đọng là một cây đại dương cầm tuyệt đẹp.
“Anh đi bật điều hòa, em lấy ghế ngồi đợi tí nhé.”
Trong lúc anh Kazuki đang thao tác bảng điều khiển điều hòa trên tường, tôi lấy một chiếc ghế không có tựa lưng và ngồi xuống bên cạnh cây đàn piano. Tôi nhẹ nhàng đặt hộp đựng violin xuống sàn, anh Kazuki cũng vừa lúc quay trở lại và ngồi vào ghế đàn.
“Vậy chuyện gì đã xảy ra?”
Chính tôi cũng không hiểu, rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra.
Vì tự biết mình đang rất rối bời, tôi cố gắng kể lại đầu đuôi những chuyện đã xảy ra. Về việc tôi đã gặp Kei và Chiharu để trao đổi quà, luyện tập cùng nhau, sau đó tôi ra ngoài dạo quanh trước ga Sendai để tìm chỗ ăn trưa. Và rồi, khi tôi đang đi ngang qua tòa nhà có trường ngoại ngữ, tôi đã gặp Raymond Howington.
“Raymond Howington, là người đàn ông mà em đã gặp vào năm 2070 đúng không?”
Tôi khẽ gật đầu trước anh Kazuki đang chau mày.
“Nhưng người đó nói rằng mình 55 tuổi vào năm 2070 nhỉ? Nếu vậy thì đáng lẽ bây giờ chỉ mới sáu tuổi mới đúng.”
“Vâng ạ… Nhưng khi gặp nhau ban nãy, người đó đúng là Rei ạ, em còn nói chuyện với chú ấy nữa. Mọi đặc điểm của người đó đều giống Rei, từ giọng nói, cho đến phong thái. Em còn hỏi tuổi nữa, chú ấy trả lời rằng mình đã 46 tuổi…”
Nhưng đó là điều không thể. Tại sao một người 55 tuổi vào năm 2070, lại có thể xuất hiện tại năm 2021? Hơn nữa người đó còn 46 tuổi?
Trong khi tôi đang bối rối đến mức chẳng biết phải làm sao, anh Kazuki trầm ngâm chống cằm suy nghĩ. Bất chợt, anh ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Em còn nhớ ngày tháng và thứ của năm 2011 và năm 2070 khi ấy không?”
Mặc dù bất ngờ vì bị hỏi đột ngột, nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ.
“Là thứ Sáu, ngày 17 tháng 6 năm 2011. Em đi đến mũi Thần Giáng vào lúc nửa đêm và bị đuối nước, khi tỉnh dậy thì em đã du hành đến thứ Hai, ngày 17 tháng 6 năm 2070.”
Khi tỉnh dậy tại Bệnh viện thị trấn Kuratsu ở tương lai, tôi đã thấy dòng chữ “Thứ hai, ngày 17 tháng 6” hiển thị trên bảng điện tử ở đại sảnh. Cùng với đó là bộ lịch vạn niên ở nhà chị Isuzu, loại lịch xếp các viên gạch nhiều màu được khắc số. Khi nhìn thấy con số “2070”, tôi chín tuổi khi ấy đã hoàn toàn mất bình tĩnh.
Anh Kazuki lấy ra chiếc điện thoại màu xanh navy, rồi bắt đầu thao tác gì đó. Một lúc sau, vẻ mặt anh thay đổi, anh tròn mắt một cách kinh ngạc.
Trong lúc tôi còn thắc mắc, anh Kazuki đã quay sang nhìn tôi.
“Hasekura.”
“… Vâng.”
“Tương lai mà em nghĩ đó là năm 2070, có lẽ thực ra không phải là năm 2070.”
Trong một khắc, tôi không hiểu những điều mà mình vừa nghe.
“Cái gì… Ý anh là sao ạ?”
“Lần đầu tiên em nhận thức được đó là năm 2070 là thông qua cuốn lịch ở nhà chị Isuzu, đúng không? Một bộ lịch vạn niên điều chỉnh ngày tháng bằng những viên gạch khắc số. Khi sang tháng mới, người ta sẽ sắp xếp các viên gạch sao cho khớp với thứ, khi sang năm mới cũng tương tự như vậy. Với loại lịch như thế, việc khiến cho em lầm tưởng là điều dễ dàng, chỉ cần xếp các viên gạch ở phần năm thành 2070 là được.”
Dù hiểu ý nghĩa trong lời nói của anh Kazuki, nhưng tôi lại không hiểu tại sao anh ấy lại nói những lời đó. “Khiến tôi lầm tưởng” là sao? Vậy thì có khác gì Isuzu đã…
“Không… Không có chuyện đó ạ. Em không nhớ mình có nói qua chưa, nhưng em cũng đã xem qua điện thoại của Isuzu. Tuy không nhớ rõ ngày giờ, nhưng em chắc chắn chiếc điện thoại đã hiển thị ngày 17 tháng 6 năm 2070.”
Tôi cao giọng, xen lẫn chút sự phản kháng, anh Kazuki đáp lại bằng vẻ mặt bình tĩnh.
“Có thể thay đổi giờ trên điện thoại mà. Để anh làm thử cho xem nhé?”
Và rồi, anh Kazuki lướt ngón tay trên chiếc điện thoại màu xanh navy. Thao tác lần này có vẻ tốn nhiều thời gian hơn. Một lúc sau, anh nói “Anh không chỉnh đến từng chi tiết đâu”, rồi hướng màn hình điện thoại về phía tôi. Anh đưa ngón tay chỉ về phía góc phải màn hình, nơi hiển thị ngày tháng.
[17/6/2070 14:13]
Tim tôi đột ngột tăng tốc, như thể có ai đó vừa nhấn ga hết cỡ vậy.
“Lúc rảnh rỗi anh có hay vọc vạch, điện thoại có thể xem lịch của rất nhiều năm sau này đấy. Tùy vào dòng máy mà nó còn có thể hẹn lịch cho cả trăm năm sau nữa. Nên anh thấy việc chỉnh ngày tháng của tương lai cũng tương đối đơn giản. Còn nữa, nhìn vào chỗ ngày tháng này này.”
Vẫn hướng màn hình điện thoại về phía tôi, anh Kazuki thao tác và mở ra lịch tháng sáu của năm 2070. Rồi anh đặt đầu ngón tay lên mục ngày 17 tháng 6. Do đang mất bình tĩnh, phải mất một lúc tôi mới nhận ra. Nhưng dần dần, từ linh cảm không ổn, cảm giác ấy biến thành một cú sốc.
Tại sao ngày 17 tháng 6, lại là thứ Ba?
“Ngày 17 tháng 6 mà em tỉnh dậy trong bệnh viện là thứ Hai nhỉ, lịch ở nhà chị Isuzu cũng để như thế. Nhưng ngày 17 tháng 6 năm 2070, thực chất lại là thứ Ba.”
Nói cách khác, cái ngày mà tôi đến tương lai, lẽ ra đã phải là thứ Ba. Nhưng ngày hôm ấy lại là thứ Hai. Bảng điện tử ở bệnh viện cũng hiển thị như vậy, nên chắc chắn không thể lầm được.
… Vậy thì ngày hôm đó, không phải là ngày 17 tháng 6 năm 2070?
Tim tôi đập dữ dội, lồng ngực đau nhói như sắp ngừng thở đến nơi, tôi phải đưa tay lên bịt miệng. Tôi lắc đầu không ngừng, như một đứa trẻ nhõng nhẽo không muốn đối mặt với thứ mình ghét.
Bởi vì, chuyện đó thật vô lý.
“… Vậy có nghĩa, chị Isuzu đã nói dối em? Em đã bị chị ấy lừa ư?”
Trong đôi mắt của anh Kazuki thoáng qua một vẻ đầy xót xa. Xin anh, đừng làm vẻ mặt đó.
“Chuyện này nói ra cũng hơi khó… Nhưng chắc là cháu đã bị người phụ nữ kia lừa gạt rồi cũng nên.”
Giọng nói của viên cảnh sát khi ấy lại vang lên trong đầu, đó là lúc tôi ra sức minh oan cho Isuzu. Cô ấy đã lừa tôi? Không thể có chuyện đó được. Mấy người chẳng biết cô ấy đã quan tâm tôi đến mức nào, đừng có mà nói những lời vu khống ấy.
“Không thể nào đâu. Bởi nếu đó không phải là thị trấn Kuratsu trong tương lai, vậy rốt cuộc em đã ở đâu? Tuy nơi đó không còn chút vết tích nào của trận sóng thần, nhưng em chắc chắn đó là thị trấn Kuratsu. Chưa kể những loại máy móc tối tân mà bây giờ vẫn chưa có. Đó tuyệt đối không phải năm 2011, nếu không phải là tương lai thì quá vô lý.”
“Anh nghĩ đó là tương lai, chẳng qua không phải năm 2070 mà thôi. Tuy không thể nói là chắc chắn, nhưng anh có thể đoán được em đã đến năm nào.”
Giọng điệu của anh Kazuki vô cùng bình tĩnh, khiến tôi như bị rút hết sự phản kháng.
“Trước tiên suy luận từ thứ trong tuần nhé.”
Anh Kazuki thao tác trên điện thoại của mình.
“Anh nghĩ vào ‘ngày hôm đó’, em đã thực sự gặp chị Isuzu vào thứ Ba. Nhưng có lẽ chị ấy chỉ sửa phần năm trên lịch về năm 2070, thế nên mới có sự mâu thuẫn về thứ. Vậy trước tiên ta hãy giới hạn lại xem trong tương lai có những ngày 17 tháng 6 nào là thứ Hai… Anh vừa xem qua, thứ nhất là năm 2024, sau đó là năm 2030, rồi tới năm 2041, năm 2047, năm 2052, 2058, 2069… Những năm sau đó đã vượt qua năm 2070, nên tạm thời có thể loại bỏ khỏi danh sách.”
Anh Kazuki nhìn vào mắt tôi như muốn xác nhận xem liệu tôi vẫn ổn. Cố gắng vực dậy cả tâm trí lẫn trái tim đang sắp cạn kiệt nhiên liệu của mình, tôi gật đầu.
“Tiếp theo là về tuổi của chú Raymond. Tuổi của chú ấy ở tương lai là 55, còn ở thời điểm hiện tại là 46. Suy nghĩ một cách đơn giản, ta lấy 55 trừ 46 còn chín. Chín năm sau của năm 2021 là năm 2030, mà năm 2030 cũng là năm có thứ Hai vào ngày 17 tháng 6.”
Tiếng tim đập của tôi ồn ào đến mức tưởng chừng như có thể át cả giọng nói của anh Kazuki. Nhưng rồi, câu nói tiếp theo của anh vẫn lọt vào tai tôi một cách rõ ràng.
“Tương lai mà em đã đến, không phải là năm 2070, mà là năm 2030.”
… Năm 2030.
Dù đã thử lẩm bẩm, nhưng con số hoàn toàn xa lạ chẳng thể nào thấm vào trong tôi. Giống như đổ dầu vào nước vậy, tâm trí của tôi không thể chấp nhận được.
“… Không thể nào.”
“Hẳn rồi.”
“Bởi vì em không hiểu. Nếu nơi em thực sự đến là năm 2030, vậy lý do gì mà chị Isuzu lại lừa em đó là năm 2070? Mục đích là gì cơ chứ?”
“Giống như em, anh cũng không biết lý do vì sao chị Isuzu lại làm vậy. Chỉ là…”
Anh Kazuki định nói gì đó, nhưng rồi lại thôi. Anh ấy chỉ vào thứ trên tay tôi.”
“Trước hết em cứ ăn đi. Nghỉ một chút rồi chúng ta lại nói tiếp, anh cũng cần sắp xếp lại suy nghĩ.”
Người cần sắp xếp lại suy nghĩ không phải anh Kazuki, mà là tôi. Có lẽ anh Kazuki cũng đã nhận ra sức chịu đựng tinh thần của tôi đã đến giới hạn, và dù có nói thêm nữa tôi cũng không thể bình tĩnh lắng nghe được.
Tôi cắn miếng bánh hấp, nhưng chẳng cảm nhận được hương vị gì. Vị của hộp sữa cũng vậy, cảm giác như đang uống một cây nến tan chảy. Tại sao. Năm 2030 ư? Không thể nào.
Ting, một nốt piano vang lên.
Anh Kazuki bắt đầu lướt những phím đàn một cách nhẹ nhàng. “Scale” là những chuỗi âm giai như đô-rê-mi-pha-sol-la-si-đô. Có khoảng ba mươi loại như vậy, từ Đô trưởng đến La thứ, và đây cũng là bài tập luyện cơ bản của violin.
Dù chỉ là những âm cơ bản, nhưng tiếng đàn của anh Kazuki lại thật đặc biệt. Âm thanh trong trẻo ấy xoa dịu tâm trí mịt mù của tôi.
Một lúc sau, anh Kazuki bắt đầu chơi những hợp âm. Ban đầu là ngẫu hứng, rồi dần dần những nốt nhạc rời rạc hợp lại làm một, bắt đầu hình thành nên giai điệu.
Nhịp điệu thư thả, giai điệu không hẳn là tươi sáng, nhưng nó hoài niệm và ấm áp. Vịnh nhỏ tựa như một căn cứ bí mật ở đảo Tokishima bỗng vụt qua trong tâm trí tôi. Tựa như tiếng sóng biển hiền hòa ở nơi ấy, giai điệu chất chứa yêu thương lan đi khắp phương trời, như muốn nhắn gửi đến ai đó ở một nơi xa hơn bao giờ hết.
Tôi đứng bật dậy như thể lồng ngực mình vừa bị găm một viên đạn. Phía sau đầu gối tôi va vào ghế, tạo ra một âm thanh khô khốc.
Anh Kazuki ngạc nhiên dừng tay, quay lại nhìn tôi.
“Sao vậy?”
“Bản nhạc đó… Sao anh lại biết nó?”
Anh Kazuki nhíu mày như không hiểu bất cứ điều gì. Tôi tiếp tục nói.
“Bản nhạc vừa rồi, của ai, tên là gì ạ? Xin hãy cho em biết.”
“Nó không có tên. Nó vừa nảy ra trong đầu nên anh cứ chơi thôi.”
Trong vài giây, đầu óc của tôi trở nên trống rỗng.
“Hasekura?”, anh Kazuki lo lắng gọi. Tôi đặt miếng bánh hấp và hộp sữa uống dở lên ghế. Tôi mở hộp đàn violin đặt dưới sàn, rồi chợt nhận ra tay mình dính vụn bánh nên đã vội vàng chùi hai bàn tay vào quần jeans. Thực sự thì tôi muốn rửa tay bằng xà phòng cho sạch sẽ, nhưng giờ không có thời gian cho việc đó. Tôi kẹp cây đàn giữa xương đòn và cằm, mất kiên nhẫn lên dây đàn rồi cầm lấy cây vĩ.
Không cần bản nhạc. Sau khi quay trở về năm 2011, tôi đã chơi đi chơi lại không biết bao nhiêu lần để không bao giờ quên.
Khi tôi bắt đầu chơi lại đúng bản nhạc đó, anh Kazuki tròn mắt ngạc nhiên, như thể anh đang nghĩ rằng tôi thật tài giỏi khi chỉ mới nghe một lần mà đã có thể chơi lại.
Nhưng vài giây sau, khi tôi chơi tiếp phần sau đoạn ngẫu hứng của anh Kazuki, sắc mặt anh ấy thay đổi hoàn toàn.
Giai điệu hoài niệm như một bài hát cổ của một đất nước xa xôi. Không bàn đến chuyện hay dở, tôi đã tái hiện nó một cách hoàn hảo. Khi tôi hạ cây vĩ xuống, vẻ mặt của anh Kazuki pha lẫn sự bối rối và cảnh giác.
“Anh… chưa chơi đến đoạn đó cơ mà.”
“Nhưng em đã biết. Chị Isuzu đã chơi bản nhạc đó bằng violin cho em nghe. Chị ấy nói đó là bản nhạc do một người bạn tri kỷ của chị ấy sáng tác.”
Ở năm 2070… Không, là năm 2030. Dù sao đi nữa, Isuzu chắc chắn đã nói:
“Đây là bản nhạc do một người bạn tri kỷ của chị sáng tác. Nó không có tên, nhưng chị tự gọi nó là ‘Far away’. Là một ca khúc để tưởng nhớ về người quan trọng ở nơi xa.”
Bản nhạc tôi nghe ở tương lai là do một người bạn của Isuzu sáng tác, và anh Kazuki là người vừa tạo ra nó. Vậy thì “người bạn tri kỷ” ấy, không lẽ là anh Kazuki?
Đến nước này đầu óc tôi quay mòng đến mức bế tắc, ngay cả anh Kazuki cũng làm vẻ đăm chiêu, đưa tay lên trán. Rồi đột nhiên, anh nhắm chặt mắt lại và thở dài một tiếng. Đó là một tiếng thở dài nặng trĩu, đến mức khiến tôi phải e dè.
“… Anh Kazuki?”
“Ban nãy anh tính nói một chuyện, nhưng rồi lại thôi.”
Giọng nói vốn luôn trung tính của anh Kazuki, bây giờ lại nhuốm màu tăm tối.
“Lúc nghe em kể về chuyện ở tương lai, anh đã thấy có gì đó không ổn.”
“Không ổn ư…”
“Anh có cảm giác rằng chị Isuzu đã biết em từ trước.”
Tôi không thể nói một lời nào, bởi vì điều đó quá bất ngờ.
“… Nhưng em đã gặp tai nạn ở mũi Thần Giáng, đó là lần đầu tiên em gặp chị Isuzu cơ mà…”
“Theo góc nhìn của em thì là vậy, nhưng tại sao chị Isuzu lại có thể canh đúng thời điểm để đến mũi Thần Giáng và cứu em chứ? Cứ cho đó là trùng hợp đi, vậy còn những chuyện sau đó? Rõ ràng chị Isuzu đã có ý định khiến em lầm tưởng về năm tháng. Việc sửa lại lịch hay đồng hồ trên điện thoại không phải là việc có thể làm ngay tại chỗ được, cần phải có sự chuẩn bị từ trước. Vậy tại sao chị ấy có thể chuẩn bị được? Chẳng lẽ chị ấy đã biết em sẽ du hành từ năm 2011 đến năm 2030?”
Tôi không nói nên lời trong gần mười giây.
“Biết trước ư, bằng cách nào chứ? Chuyện đó đâu thể xảy ra.”
“Anh thấy rất lạ, khi trong suốt thời gian ở tương lai, em chẳng hề nghi ngờ gì về ‘năm 2070’ mà chị Isuzu đã nói. Có thể một phần là do tích cách của em, nhưng cho dù vậy thì anh thấy vẫn thật khó tin. Bình thường, ngày tháng năm là thứ rất dễ lọt vào tầm mắt. Chẳng hạn như đồng hồ hiển thị trên máy tính, tivi, báo chí, hay tấm lịch nào đó treo đại trong một cửa hàng bất kỳ. Ấy vậy mà chị Isuzu lại có thể giấu được em trong suốt một tháng rưỡi, chắc chị ấy đã phải dốc cạn trí óc để suy nghĩ rất nhiều phương án đấy. Nếu em chỉ là một đứa trẻ lạ mặt mà chị Isuzu tình cờ bắt gặp, anh không nghĩ chị ấy sẽ làm đến mức đó đâu. Khả năng rất cao chị Isuzu đã biết em từ trước, và phải có lý do nào đó mới khiến chị ấy phải làm như thế.”
“Nhưng đó chỉ là suy đ…”
Chưa dứt lời thì cổ họng tôi đã nghẹn lại. Bất chợt, một ký ức lóe lên trong đầu tôi.
Bánh kem. Món bánh dâu tây mà tôi thích nhất.
Sau khi được Isuzu cứu và tỉnh dậy trong bệnh viện, cô ấy đã dẫn tôi về nhà Nishijo. Nhưng khi biết rằng căn nhà đó là nơi cô ấy sống và đây là năm 2070, tôi đã vô cùng hoảng loạn. Khi ấy, Isuzu đã nói với tôi:
“Vừa hay chị cũng vừa mới mua bánh kem, trà cũng vừa pha luôn. Tụi mình ăn chung ha.”
Tại sao lúc đó lại có hai chiếc bánh kem?
Kể từ lúc tỉnh dậy ở tương lai, Isuzu chưa từng rời khỏi tôi dù chỉ một lần, vậy thì chiếc bánh kem đó phải được chuẩn bị từ trước. Nhưng tại sao cô ấy lại mua hai chiếc? Thời điểm đó, đáng lẽ Isuzu phải sống một mình mới đúng. Vì Isuzu thích đồ ngọt nên đã mua hai chiếc? Dù vậy, cô ấy có mua hai chiếc cùng loại không?
Vậy chẳng phải, Isuzu đã biết tôi sẽ đến vào ngày hôm ấy?
“Và còn một khúc mắc nữa, đó là chuyện giao hàng tận nhà.”
Vì quá đỗi bàng hoàng, giọng nói của anh Kazuki nghe thật xa xăm. Giao hàng tận nhà thì có gì chứ?
“Chị Isuzu bảo rằng em không được nhận hàng khi không có chị ấy ở nhà nhỉ.”
“Vâng… Chị ấy bảo nếu để người ta biết trong nhà chỉ có trẻ con thì sẽ rất nguy hiểm.”
“Điều đó cũng có lý, thực tế rất nhiều người cũng bảo con cái của mình không được làm điều tương tự. Nhưng chị ấy còn bảo em không được động vào thư từ nhỉ. Thư từ đâu có gì nguy hiểm, tại sao chị ấy lại làm thế?”
Tôi chỉ biết lắc đầu trong bất lực. Quá nhiều điều không thể lý giải khiến tôi kiệt sức. Anh Kazuki lặng lẽ nói tiếp.
“Anh nghĩ chị Isuzu không muốn em dính dáng đến giao hàng và thư từ. Vậy điểm chung của hai điều trên là gì? Anh chỉ nghĩ được tên và địa chỉ. Trên phiếu giao hàng lúc nào cũng ghi tên và địa chỉ người nhận, cả thư từ cũng vậy. Có khi nào chị Isuzu muốn giấu chúng khỏi em?”
“Che giấu địa chỉ vốn có ích gì ạ? Nơi đó vốn là nhà của chị ấy, địa chỉ thì em cũng đã biết.”
“Đúng, thế nên anh nghĩ thứ mà chị Isuzu muốn giấu không phải là địa chỉ, mà là tên. Ngoài việc nghe qua lời của chị Isuzu, em có từng nghe hay thấy qua họ của chị ấy không?”
Họ?
“Họ mà chị Isuzu nói cho em biết chẳng qua chỉ là từ một phía. Em có thấy qua bằng chứng khách quan nào hơn không? Chẳng hạn như chữ ‘Suwa’ viết trên một tờ giấy, hay có ai đó khác gọi chị ấy là ‘Suwa’.”
Nhà Isuzu không hề có biển tên, đó chẳng phải chuyện hiếm nên tôi cũng không để ý. Cả cô Marie và Rei đều gọi Isuzu bằng tên, vì là bạn bè thân thiết nên đó là chuyện đương nhiên.
Như thể đã dự đoán được tôi chẳng thể đưa ra bằng chứng xác thực nào, anh Kazuki nói tiếp.
“Có lẽ chị Isuzu muốn giấu họ của mình khỏi em.”
“… Tại sao?”
“Vì nếu để em thấy thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Trên đời này có cái họ nào có thể khiến mọi thứ đảo lộn sau khi em nhìn thấy nó ư? Với anh thì chỉ có một cái.”
Tim tôi đập thình thịch như tiếng bước chân dự báo điều chẳng lành.
“‘Hasekura Isuzu’… Có khi nào đó mới là cái tên được ghi trên phiếu giao hàng và thư từ.”
Từ một nơi nào đó trong tòa nhà câu lạc bộ, tiếng ghi-ta và tiếng trống ồn ã vang đến, ngoài ra còn có tiếng cười đùa, tiếng ai đó chào hỏi nhau niềm nở. Hoàn toàn khác xa so với sự tĩnh lặng chết chóc của căn phòng này.
“‘Hasekura’ là một họ khá hiếm. Nếu là Satou hay Suzuki thì có thể nói đó là trùng hợp, nhưng ‘Hasekura’ thì khó mà nói vậy được. Một đứa trẻ chín tuổi như em chắc chắn sẽ thấy kỳ lạ và nảy sinh nghi ngờ. Có lẽ vì vậy mà chị Isuzu mới giấu nó khỏi em.”
“… Hasekura ư? Nhưng tại sao…”
“Ngoài sự trùng hợp ra thì lý do để có cùng họ cũng chẳng nhiều. Người thân, họ hàng… Hoặc là bạn đời.”
Anh Kazuki cau mày nhìn tôi đang sững sờ. Như thể đang hỏi rằng tôi vẫn chưa hiểu sao. Tai tôi ù đi.
Anh Kazuki mở môi, nhưng rồi lại ngập ngừng khép lại, sau một hồi im lặng, anh mới cất giọng trầm thấp và nói ra kết luận của mình.
“Người chồng của chị Isuzu đã mất tích ở tương lai, có khi nào lại chính là em không?”
Ý thức của tôi dần trở nên xa vời, tôi bất giác lùi lại như muốn trốn chạy khỏi điều gì đó. Một tiếng “cạch” khó chịu vang lên.
Tay trái cầm violin của tôi va vào chiếc ghế phía sau. Tim tôi thắt lại. Đối với một nghệ sĩ, nhạc cụ cũng như một phần cơ thể, nếu làm nó bị thương thì bản thân cũng sẽ thấy đau đớn. Tôi vội vàng ôm lấy cây violin, nhìn vào phần lưng đàn bị va phải.
Phần dưới trung tâm của lưng đàn. Lớp véc-ni đã bong ra thành một mảng trắng, tạo thành một vết xước tựa như một tia sét nhỏ.
“Nghe nói hồi xưa bị va mạnh vào đâu đó nên lớp véc-ni đã bong ra. Bình thường anh ấy kỹ tính lắm, nhưng lâu lâu cũng lơ đễnh như vậy đấy.”
Cây violin mà người chồng của Isuzu đã dùng ở tương lai. Vết xước trên lưng đàn ấy, từ hình dáng cho đến kích thước, tất cả đều y hệt nhau.
Tầm nhìn của tôi bỗng trở nên đảo lộn.
“Hasekura.”
“… Xin lỗi anh, cho em mười giây.”
Ôm lấy cây violin ngồi gục xuống, tôi cố nén cơn chóng mặt. Đầu óc tôi quay cuồng như một cơn lốc xoáy. Nhưng khi thời gian trôi và cơn lốc ấy dần lắng xuống, tâm trạng tôi bình tĩnh đến mức có thể nói là tĩnh lặng. Giống như khi sau khi chạy quá giới hạn thì bản thân sẽ không còn cảm thấy đau đớn nữa.
Có lẽ khi sự bối rối vượt quá giới hạn, trạng thái tinh thần của tôi sẽ trở nên như thế này.
Có lẽ anh Kazuki đã nói đúng. Isuzu đã nói dối tôi, cô ấy đã giấu tôi rất nhiều điều.
Vô số cách thức đã được thực hiện để khiến tôi tin rằng tương lai đó là năm 2070. Cô ấy có thể chuẩn bị được những điều đó, là vì đã biết trước tôi sẽ đến vào ngày hôm ấy.
Cô ấy biết được, có lẽ là do chính tôi kể cho cô ấy nghe.
Isuzu và anh Kazuki vốn không có chút liên hệ gì ở thời điểm hiện tại, nhưng nếu có tôi làm trung gian thì mọi chuyện sẽ khác. Có lẽ đó là lý do cả hai đã quen biết nhau vào năm 2030.
Tất nhiên, vẫn còn rất nhiều điều chưa được lý giải. Nếu đó thực sự là năm 2030, vậy tại sao cha mẹ nuôi nhà Nishijo lại không có ở đó? Madoka đã đi đâu? Tại sao một người không bao giờ muốn quay lại thị trấn Kuratsu như tôi, lại sống ở đó?
Nhưng giờ thì tôi đã chấp nhận. Đó không phải là năm 2070, mà là năm 2030. Nghĩ lại thì, trong suốt một tháng rưỡi sống tại năm 2030, tôi chưa từng nghe qua tên chồng của Isuzu. Người đó là…
Tôi đứng bật dậy.
“Anh Kazuki, nếu đó là năm 2030 theo lời anh nói, vậy Isuzu bây giờ đã ra đời và cô ấy hiện đang sống ở một nơi nào đó.”
Anh Kazuki không trả lời, nhưng không trả lời cũng chẳng sao. Sâu trong hốc mắt tôi nóng ran, rồi nước mắt tuôn trào. Tôi vui sướng, tôi chưa từng cảm thấy niềm vui sướng nào đến mức muốn hét lên như thế này.
Tôi đã từng từ bỏ hy vọng được gặp lại cô ấy, từ bỏ trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Nhưng giờ thì không còn nữa. Tôi có thể gặp lại cô ấy. Một lần nữa, tôi có thể gặp lại Isuzu.
Không thể bình tĩnh thêm một giây nào nữa, tôi nhanh chóng thu dọn đồ đạc. Vác hộp vĩ cầm lên vai, tôi xoay người định đi về phía cửa.
Bỗng từ phía sau, một lực mạnh đến mức đau đớn siết lấy cánh tay tôi. Quay người lại, anh Kazuki nhìn tôi với ánh mắt nghiêm nghị.
“Em định đi đâu?”
“… Em không biết. Nhưng em phải đi tìm chị Isuzu.”
“Em không hiểu à? Hay là biết rõ mà vẫn cố tình không hiểu?”
Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy giọng nói sắc bén đến như thế từ anh Kazuki.
“Nếu em thực sự là chồng của chị Isuzu, sau này em sẽ gặp tai nạn và mất tích không rõ sống chết đấy. Nếu em gặp chị ấy, trong vòng chưa đầy 10 năm nữa, em có thể sẽ chết.”
Tôi biết, chính vì biết nên tôi không hề dao động. Thấy tôi không một chút nao núng, nỗi khổ sở trong mắt anh Kazuki càng sâu sắc hơn.
“Chắc chắn để ngăn chặn điề đó đó, chị Isuzu đã cố hết sức để che giấu mối quan hệ giữa em và chị ấy. Vì không muốn em tìm ra nên chị Isuzu mới cố tình khiến em lầm tưởng về thời gian của tương lai, để cậu không thể tìm thấy chị ấy.”
“Em biết. Chính vì vậy nên em càng phải đi gặp chị ấy.”
Tôi nhẹ nhàng gỡ cánh tay của anh Kazuki ra.
“Vào năm 2029, Isuzu sẽ bị đuối nước tại mũi Thần Giáng và một người nào đó, có thể là em của tương lai, sẽ cứu cô ấy rồi mất tích. Nếu người đó thực sự là em, và nếu như em không gặp chị Isuzu, vậy thì ai sẽ cứu chị ấy đây? Rất có thể chính chị Isuzu mới là người sẽ chết trong vài năm tới.”
Có lẽ Isuzu cũng đã lường trước được liều đó. Dù biết tính mạng mình có thể sẽ gặp nguy hiểm, nhưng cô ấy vẫn liều mình bảo vệ một thằng nhóc chín tuổi như tôi, khiến nó lầm tưởng rằng đây là năm 2070 để chôn vùi bí mật trên.
Lồng ngực tôi như muốn vỡ tung. Vì đau buồn, vì bức bối, và vì tình yêu.
“Cảm ơn anh, em thực sự rất biết ơn anh. Nếu không có anh, có lẽ em đã sống cả đời mà không nhận ra bất cứ điều gì. Thế là quá đủ rồi, từ giờ xin anh đừng bận tâm đến em nữa. Dù mọi chuyện có ra sao, em cũng sẽ không hối hận.”
Tôi quay người rời đi. Nhưng ngay sau đó, cổ áo phông của tôi bị giựt mạnh từ phía sau, khiến tôi nghẹt thở kêu lên một tiếng.
“Anh định giết em hay gì!”
“Đừng có tự mình kết thúc mọi chuyện như thế, đồ ngu này!”
“Anh dám gọi em là đồ ngu!?”
“Anh nói chuyện dài dòng nãy giờ không phải để em đi tìm chỗ chết đâu, đồ ngu. Em có hối hận hay không, anh cũng không quan tâm.”
Anh Kazuki với lời lẽ chẳng hợp với khuôn mặt hoàng tử của mình tí nào, tỏa ra một khí thế áp đảo, giống như lúc anh dùng piano để “đấm” vào mặt khán giả khi ấy. Tôi có chút chùn bước.
“Quả thật, em sẽ hạnh phúc khi được gặp chị ấy. Nhưng vài năm nữa khi em chết đi, những người còn lại sẽ ra sao đây? Cha mẹ em? Chị Madoka? Cả Hinohara và Hayasaka nữa? Mikiya chắc chắn cũng sẽ sốc. Em không hề nghĩ đến những chuyện đó sao? Hay em chỉ muốn thỏa mãn chính mình, ai cảm thấy thế nào cũng mặc kệ?”
Bị dồn ép bằng những câu hỏi sắc như dao, tôi càng thêm nao núng, nhưng rồi như một cành cây bị đè nén rồi bật ngược trở lại, tôi cũng xù lông lên.
“Vậy nếu anh là em thì sao? Nếu như anh có cơ hội được gặp lại chị Nanao, anh sẽ làm gì?”
Đồng tử của anh Kazuki khẽ dao động, như một giọt nước rơi xuống mặt hồ tĩnh lặng.
“Chẳng phải anh cũng sẽ đi sao? Chẳng phải anh cũng sẽ để mặc bạn bè và gia đình ở phía sau hay sao? Chẳng phải anh đã yêu chị ấy đến mức đó hay sao?”
Tôi biết mình đang dùng một thủ đoạn hèn hạ, giống như bắt con tin vậy. Nhưng tôi không hề thấy hối hận. Kể cả đối phương có là anh Kazuki, miễn là người đó ngáng đường tôi, tôi sẽ gạt phăng đi bằng hết.
“Phải, anh sẽ đi.”
Sau một khoảng lặng, anh Kazuki cất lời.
“Nếu có thể gặp lại cô ấy, anh sẽ đi bất cứ đâu. Người khác nói gì anh cũng mặc kệ, có làm tổn thương ai anh cũng không quan tâm. Kể cả nếu mình có chết trong vài năm sau, anh cũng chấp nhận. Chỉ cần được gặp lại cô ấy, dù có phải chết ngay khoảnh khắc đó, anh cũng bằng lòng.”
Dù vừa mới nói những lời gay gắt, nhưng giọng nói của anh Kazuki lại trầm lắng đến kỳ lạ, chính điều đó càng khiến tôi cảm thấy bị áp đảo. Ánh nhìn của anh ấy đâm xuyên qua tôi, như hướng về một nơi xa xăm nào đó. Cứ như thể vịnh nhỏ đang ở trước mắt và người ấy đang đứng tại nơi đó. Nhưng rồi, anh Kazuki nhắm chặt mắt như để cắt đứt dòng suy nghĩ, rồi nhìn thẳng vào tôi.
“Anh sẽ hỏi em điều tương tự, nếu em là anh thì sao? Nếu em biết anh sẽ chết trong vài năm tới, liệu em có ngăn anh không?”
“Chuyện đó…”
“Câu hỏi này dĩ nhiên chẳng có ý nghĩa gì cả. Nanao đã không còn, cô ấy không còn ở bất cứ nơi nào trên đời này nữa. Nhưng em thì khác. Chị Isuzu có lẽ đã được sinh ra trên thế giới này và đang sống tại một nơi nào đó. Em có thể tìm và gặp chị ấy mà không cần phải vượt thời gian hay làm những chuyện dại dột. Anh biết, việc từ bỏ điều đó là điều không thể. Nếu ở trong hoàn cảnh tương tự, anh cũng sẽ làm giống như em, nhưng mà…”
Trong đôi mắt anh Kazuki nhìn tôi, chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm.
“Anh nghĩ rằng, chị Isuzu vẫn sẽ cầu mong cho em được bình an. Ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc cả hai gặp nhau, lẫn khoảng thời gian cả hai đã từng trải qua sẽ biến mất như chưa từng tồn tại. Chỉ cần em được sống ở một nơi xa xôi nào đó, thì đối với chị ấy như vậy là đủ rồi. Anh tin rằng chị Isuzu đã cố gắng hết sức để bảo vệ em. Anh tin rằng chị Isuzu đã yêu em theo cách như vậy.”
“Sau khi trở về, hãy quên chị đi nhé. Và hãy trở thành người hạnh phúc nhất thế gian.”
Giọng nói của Isuzu vang lên trong tâm trí tôi như một chiếc chuông bạc nhỏ. Cùng với đó là cảm giác của bàn tay đã xoa đầu tôi, và nụ cười dịu dàng đến đau lòng.
Hốc mắt tôi cay xè, một dòng nước ấm lăn dài trên má.
“Anh biết mình đang nói những điều vô lý, nhưng anh muốn em hãy nhớ lấy. Nhớ lý do vì sao chị Isuzu lại nói dối em. Và nếu như em không còn, những người còn lại sẽ cảm thấy như thế nào.”
Tôi im lặng cúi gằm mặt.
Tôi không thể gật đầu đồng ý.
Nhưng tôi cũng không còn có thể gạt phắt đi mà nói lời từ chối được nữa.
2
Đó là lần đầu tiên tôi nghỉ làm ở Alphard.
“Em không cần phải lo về chuyện ở quán đâu, cứ việc ăn uống đầy đủ mà nghỉ ngơi. Dạo này có nhiều người bị say nắng mà không biết đấy, nếu trong người cảm thấy lạ thì phải đi khám ngay cho chị. Em còn có chị gái chăm nên chắc không sao đâu, nhưng nếu có gì xảy ra thì đừng ngần ngại mà nói với chị đấy.”
"Em xin lỗi ạ, do em thấy trong người không khỏe."
Giọng tôi yếu ớt vì cảm giác tội lỗi khi phải nói dối. Bà chủ đáp lại bằng một giọng đầy lo lắng thật sự. Hơn nữa, bà chủ còn bảo dạo này tôi đã làm việc liên tục nên hãy nghỉ ngơi hết tuần này đi.
“Em cảm ơn ạ.”
Tôi đáp lại bằng một giọng còn yếu ớt hơn, rồi cúp máy.
“Bà chủ nói em thấy không khỏe, em ổn chứ? Chị Madoka ban ngày cũng không có ở nhà, nếu cần mua đồ ăn hay gì thì cứ báo với anh.”
Anh Ozaki cũng gửi một tin nhắn như vậy ngay trước giờ mở cửa của Alphard. Tôi đã định trả lời, nhưng cứ gõ được vài chữ là lại xóa, cuối cùng cũng chẳng gửi đi được. Tôi chỉ biết trùm chăn lên người và cuộn tròn.
“Souta? Ozaki nhắn tin bảo em không khỏe. Cậu chưa ăn gì đúng không? Ăn sushi không, chị mới mua này? Ít nhất cũng phải bỏ miệng cái gì đó đi chứ, này.”
Khoảng hơn chín giờ tối, Madoka trở về nhà và gõ cửa phòng tôi. So với lịch trình bận rộn của mọi khi, hôm nay chị về khá sớm, có lẽ là vì lo cho tôi. Nhưng với tâm trí hiện tại, tôi chẳng thể nào đứng dậy mở cửa rồi cười nói bảo mình không sao. Tôi cứ im lặng, Madoka lại gọi tên tôi, nhưng sau một lúc thì không gian đã trở nên tĩnh lặng.
Isuzu đã có mặt tại thế giới này. Nhưng nếu tôi gặp cô ấy, có thể tôi sẽ chết vào năm 2030.
Tôi cứ luẩn quẩn giữa hai luồng suy nghĩ đó.
Isuzu đã có mặt tại thế giới này. Nhưng nếu tôi gặp cô ấy, có thể tôi sẽ chết vào năm 2030.
Giống như một buổi kiểm tra thể lực trong giờ thể chất, tôi chỉ biết lặp đi lặp lại cùng một động tác.
Nghĩ đến việc bản thân sẽ chết trong tám năm nữa, thú thật tôi không thấy sợ hãi. Tôi chỉ có một cảm giác lành lạnh mơ hồ khi tưởng tượng đến điều đó. Hay chỉ là do tôi vẫn chưa thực sự cảm nhận được nó?
Tám năm sau vào năm 2029, tôi sẽ tròn 27 tuổi. Đúng là tôi chưa từng nghĩ mình sẽ chết ở độ tuổi đó.
Nhưng con người, chẳng phải ai rồi cũng sẽ chết sao? Trong phim ảnh người ta cũng hay nói thế, chuyện chúng ta chết chỉ là sớm hay muộn. Nếu vậy thì việc gặp Isuzu và chết sau tám năm, hay việc không gặp Isuzu và chết sau vài chục năm, cũng đâu có khác gì nhau?
Miên man trong những dòng suy nghĩ, tôi thiếp đi từ lúc nào không hay.
Và rồi, tôi mơ thấy một giấc mơ.
Cha tôi ở đó. Trong bộ đồ lính cứu hỏa, ông chạy đôn chạy đáo từ nhà này sang nhà khác. Sau trận động đất kinh hoàng ấy, rất nhiều người đã di tản lên vùng cao, nhưng vẫn còn những người cần trợ giúp đã không thể chạy đi. Ông chạy khắp nơi với vẻ mặt nghiêm nghị. Nhanh lên, nhanh lên.
Giống như có hai màn hình đặt cạnh nhau, tôi cũng thấy mẹ. Bà mặc đồng phục y tá, vẻ mặt của bà đáng sợ hơn rất nhiều lần so với lúc mắng tôi, bà đẩy những chiếc giường có bệnh nhân không thể tự di chuyển. Nhanh lên, nhanh lên, lên tầng thượng. Sóng thần sắp tới rồi. Vẫn còn nhiều người cần cứu. Nhanh lên, nhanh lên.
“Dừng lại đi!”, tôi gào lên trong tuyệt vọng, nhưng nó chẳng đến được với cả hai. Lo cho người khác làm gì? Nghĩ cho bản thân mình đi! Nghĩ cho đứa con chín tuổi đang ngóng chờ hai người đi!
Nhưng cả cha và mẹ đều không dừng bước.
Và rồi con ác quỷ đó ập đến.
Nó cuốn lên lớp bụi dày đặc tựa như màn khói, phá hủy những ngôi nhà, làm nổ những bình ga, tiếng rào rú kinh hoàng vang vọng, con sóng đen ngòm như dầu tắm trong dầu thô san phẳng cả thị trấn, cả cha và mẹ đều rơi vào bụng của con quái vật.
“Ư…”
Hệ hô hấp của tôi dừng lại trong khoảnh khắc, tôi bật dậy khỏi giường. Dù chỉ là giấc mơ, nhưng những cơn ho cứ dồn dập ập đến nơi cổ họng. Như thể tôi đang cố nôn ra thứ nước biển ảo ảnh mà bản thân đã nuốt phải.ải.
Qua sự tĩnh lặng và sâu lắng của căn phòng, tôi biết bây giờ là nửa đêm. Cơn ho không ngớt như khiến nội tạng của tôi xoắn lại, tôi ôm lấy ngực, ngón tay bấu chặt vào giường.
“… Souta? Sao vậy, em có sao không?”
Cửa phòng mở và Madoka lên tiếng. Tôi cố hít lấy hít để, nói bằng giọng khàn như một ông lão sắp chết đến nơi.
“… Không có gì ạ. Em chỉ bị sặc thôi.”
“Nhưng mà…”
“Em xin lỗi, em muốn đi ngủ nên chị đóng cửa giùm em.”
Madoka dường như định nói điều gì đó, nhưng một lát sau, cánh cửa lặng lẽ đóng lại. Tôi gục mặt vào đầu gối, tay ấn chặt lên đôi mắt tuôn trào dòng lệ như thể có thứ gì đó bên trong đã vỡ nát.
Có một điều mà tôi đã luôn cố gắng không nghĩ đến.
Vào khoảnh khắc lìa đời, cha mẹ tôi đã nghĩ gì? Thi thể của hai người được bọc trong tấm bạt xanh, tôi đã không thể nhìn mặt họ lần cuối. Những người lớn nhất quyết không cho tôi nhìn. Như thế thì chắc chắn họ đã chẳng thanh thản tí nào vào phút lâm chung.
Họ đã đau đớn đến nhường nào? Đã quằn quại đau khổ đến mức nào khi sắp chết?
“Nếu anh ấy đã chết, chị mong rằng anh ấy sẽ có một cái chết không đau đớn.”
Khoảnh khắc giọng nói của Isuzu ùa về, một cơn ớn lạnh chạy dọc sóng lưng tôi. Như thể một liều thuốc sợ hãi dạng lỏng được tiêm thẳng vào tủy sống, tôi bỗng thấy sợ hãi tột cùng, toàn thân run rẩy không ngừng.
À.
Không phải là tôi không sợ chết, tôi sợ chứ, sợ đến nhường này cơ mà. Không phải vậy, mà là tôi không tìm thấy được giá trị nào ở bản thân để tôi phải nuổi tiếc trước cái chết.
Khi bị dì gọi là “Yuuta”, dù cực kỳ căm ghét, nhưng tôi cũng chỉ vùng vẫy một chút rồi lại thôi. Đúng là tôi có thương dì, nhưng tôi sợ rằng nếu làm lớn chuyện, mình sẽ bị đuổi khỏi nhà Nishijo. Tôi sợ mình sẽ mất đi chỗ ở.
Vì thế, khi lưu lạc đến năm 2070… Đúng hơn là năm 2030, tôi đã sống những ngày tháng thư thả hơn bao giờ hết. Tôi chưa từng nghĩ đến việc muốn quay trở lại.
Và rồi sau khi đột ngột bị đưa về năm 2011, tôi vẫn sống ở nhà Nishijo như chưa có chuyện gì xảy ra. Tôi đè nén những cảm xúc âm ỉ trong lòng, và với tư cách là một đứa trẻ được nhận nuôi, tôi đã cố gắng cư xử phải phép và mỉm cười để lấy lòng mọi người trong nhà. Tôi không muốn mất đi căn phòng riêng của mình, nơi tôi có thể yên tâm ngủ, tôi muốn tiếp tục chơi violin, và tôi cũng muốn được vào đại học. Thế nhưng, như một kẻ ăn cháo đá bát, tôi đã quyết định rằng một khi rời khỏi nhà, tôi sẽ không bao giờ quay trở lại thị trấn đó hay gặp lại những người đó nữa.
Vậy mà, dù đã sống một cách bỉ ổi như thế, tôi vẫn không tìm thấy ý nghĩa cho sự tồn tại của chính mình. Tôi nói là muốn trở thành giáo viên, nhưng đó cũng chỉ là nghề để kiếm sống, nó không chất chứa lý tưởng hay hoài bão nào. Tôi không có ước mơ, cũng không có điều gì muốn làm. Và có lẽ, tôi cũng chưa từng thực sự yêu thương một ai.
Vào cái ngày mà quá nhiều người ra đi đột ngột ấy, tại sao người sống sót không phải Yuuta mà là tôi? Giống như cha mẹ tôi, chắc chắn cũng có những người đã cứu những người khác đến tận giây phút cuối cùng, vậy mà tại sao họ lại chết còn tôi thì lại sống? Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu được.
Tôi không thể nói với chính mình rằng mày xứng đáng được ngẩng cao đầu mà sống.
Nhưng sau tất cả, tôi sợ rằng mình sẽ chết sau tám năm nữa.
Ngày hôm sau, tôi vẫn giam mình trong phòng. Tôi không có động lực để làm bất cứ điều gì. Tôi thấy thật kỳ lạ rằng tại sao cho đến ngày hôm qua, tôi vẫn có thể đi làm thêm, đi gặp gỡ bạn bè, hoạt động từ sáng đến tối như vậy. Chiếc điện thoại bị vứt xó vang lên những tiếng chuông ngắt quãng. Tin nhắn từ chị Madoka. Tin nhắn từ anh Ozaki. Một cuộc gọi nhỡ từ anh Kazuki, nhưng không có tin nhắn thoại nào.
“Souta, sao vậy? Cậu không khỏe à?”
“Cả Kei và tớ đều lo cho cậu đấy. Cậu không cần phải gắng sức luyện tập, chỉ cần hồi đáp lại cho bọn tớ thôi.”
Kei và Chiharu cũng gửi tin nhắn đến. Phải rồi, hôm nay nhóm chúng tôi có lịch tập ở trường. Tôi xin lỗi, trả lời rằng tôi thấy không khỏe trong người nên không thể đi tập được. Chỉ nhiêu đó thôi mà tôi đã thấy mệt nhoài, tôi nằm gục mặt xuống giường, nhắm chặt mắt.
Tôi bất ngờ tỉnh giấc vì tiếng chuông cửa “kính coong”.
Chết tiệt, là ai vậy chứ. Tôi lê thân mình dậy, kiểm tra chuông màn hình tại phòng khác, rồi giật mình. Kei và Chiharu đang dí sát mặt nhìn chằm chằm vào camera.
Tôi đã nghiêm túc nghĩ đến việc giả vờ không có ở nhà trong khoảng mười giây, nhưng làm vậy thì quá thất đức. Tôi thở dài, nhấn nút mở cửa an ninh ở lối vào.
Chưa đầy một phút sau, lần này tiếng chuông cửa chính vang lên.
“Souta, mặt cậu trông như người rừng ru rú trong hang suốt mười năm vậy…?”
“Ừm, đây là cháo và trứng hấp. Cậu chỉ cần bỏ vào lò vi sóng làm nóng là ăn được. Còn có bánh pudding nữa, nếu cậu muốn thì cứ ăn nhé.”
Tôi nhận lấy túi đựng từ cửa hàng tiện lợi mà họ đưa, cố gắng nặn ra một nụ cười để trấn an họ. Nhưng tôi cũng chẳng biết liệu nó có hiệu nghiệm.
“Cảm ơn nhé, cho tớ xin lỗi nhiều. Tớ nghĩ mình chỉ bị cảm nhẹ thôi, không cần phải lo cho tớ đâu.”
“Vậy à,” Kei đáp lại với vẻ uể oải thường ngày, nhưng Chiharu thì nhìn tôi chằm chằm.
“Souta, nếu cần giúp gì, cứ việc nói với chúng tớ nhé.”
Cảm giác như mọi tâm tư của mình đã bị đôi mắt màu hạt dẻ phía sau cặp kính giản dị của Chiharu nhìn thấu, tôi lảng tránh ánh mắt cậu ấy.
“Không, không có chuyện gì đâu.”
“Cậu không muốn nói cũng chẳng sao. Tớ chỉ lo cho cậu thôi, vì cậu hay ôm đồm mọi thứ vào mình. Nếu cậu chia sẻ, biết đâu chúng tớ có thể làm gì đó.”
Chia sẻ ư… Chuyện này nói ra thì giải quyết được gì chứ.
“Không phải việc của cậu.”
Giọng của tôi trở nên cáu gắt, khi tôi nhận ra thì đã quá muộn.
Sắc mặt của Chiharu không thay đổi. Chỉ là, đường nét trên đôi má cậu ấy hơi cứng lại, và khóe môi mím chặt hơn. Chiharu cúi mặt, đẩy cặp kính cận của mình.
“Tớ hiểu rồi, xin lỗi vì đã tọc mạch. Nhưng cậu nhớ ăn uống đầy đủ đấy.”
Chiharu xoay người, đi về phía thang máy. Tại sao bóng lưng của Chiharu lại trông nhỏ bé đến như thế? Tôi biết mình nên đuổi theo, nhưng tôi vẫn cứ đứng yên một chỗ tại đó.
“Souta.”
Tôi chậm chạp quay về phía giọng nói cất lên, ngay lập tức, một tiếng “BỐP” vang lên.
Tôi sững người kinh ngạc. Bàn tay lạnh lẽo ngay cả trong mùa hè của Kei, đang áp vào má tôi. Cú tát không mạnh nên không đau, tôi chỉ bất ngờ. Bất ngờ vì bị tát. Bất ngờ vì Kei không còn giữ vẻ mặt uể oải, mà đang nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm túc.
“Nói ra chuyện này có thể bị gọi là ‘chơi xấu’, nhưng tình hình đang rất không ổn nên tớ sẽ nói thẳng. Chuẩn bị chưa?”
“G… Gì cơ…”
“Tớ biết cậu là tên đần nên chẳng nhận ra gì cả, nhưng Chi-chan thích cậu đấy. Không phải theo nghĩa bạn bè, mà theo nghĩa muốn được cậu ôm vào lòng.”
Tôi nghĩ khuôn mặt mình lúc đó ngớ ngẩn đến buồn cười. Khi còn đang lắp bắp miệng, Kei đã cắt ngang bằng một giọng đanh thép, “Nhưng mà”.
“Chi-chan biết trong lòng cậu đã có một người rất quan trọng. Souta, cậu chẳng bao giờ hứng thú với mấy buổi xem mắt, cũng chẳng kêu gào muốn có bạn gái, và thỉnh thoảng lại giật ngoái nhìn khi có cô gái tóc dài nào đó lướt qua. Vì lẽ đó mà Chi-chan mới không nói ra tình cảm của mình. Không phải vì cậu ấy sợ bị từ chối, mà là vì không muốn cậu rơi vào cảnh khó xử khi không thể đáp lại tình cảm đó. Chi-chan quan tâm đến người khác như thế đấy.”
“Khoan, chờ đã, tớ… Cứ ngỡ cậu với Chi-chan là…”
“Chi-chan và tớ đã thề sẽ mãi mãi là đồng bạn đồng chí. Hơn nữa, tớ không có ham muốn hẹn hò hay quan hệ thể xác, dù là nam hay nữ.”
“Ơ, vậy à…?”
“Chúng ta quen nhau cũng lâu mà chưa từng tâm sự về mấy chuyện như này nhỉ. Rằng tại sao một đứa huyết áp thấp như tớ, đứng lâu cũng không nổi như tớ lại muốn làm một công việc phải đứng cả ngày như giáo viên tiểu học. Hay chuyện gì đã xảy ra khiến Chi-chan có thể nhẫn nại đến mức xem mấy trò ác ý của Takaizumi như ‘gió thoảng’. Hay tại sao mỗi khi nhắc đến chuyện gia đình, cậu lại trưng ra nụ cười có chút đau khổ.”
Tôi không nói nên lời. Tôi chưa từng nghĩ rằng mình đã từng làm bộ mặt như thế, cũng chưa từng nghĩ rằng Kei đã nhận ra điều đó. Nếu vậy, chẳng lẽ Chiharu cũng…?
“Nhưng tụi mình vẫn còn thời gian, tận bốn năm đại học lận. Và nếu chúng ta có thể cùng nhau chơi nhạc, thì nó sẽ là mãi mãi về sau. Nên cứ từ từ mà ngồi nói chuyện với nhau. Cậu có thể tâm sự những gì cậu sẵn sàng chia sẻ. Còn chuyện của tớ lẫn chuyện của Chi-chan , tớ mong cậu sẽ lắng nghe sau khi khỏe khoắn trở lại. Tạm thời những chuyện đó gác qua một bên.”
Cuối cùng, Kei hạ thấp tông giọng khiến tôi nao núng… Vẻ mặt của Kei thật đáng sợ.
“Hôm nay, tớ với Chi-chan đã thực sự rất lo. Một người chưa bao giờ thất hẹn vô cớ như cậu lại bùng kèo, nhắn tin thì bảo là không khỏe. Bọn tớ lo sốt vó chạy đến đây thì thấy cậu tóc tai bù xù, râu ria cũng chẳng cạo, mặt mày thì bơ phờ. Vậy mà cậu lại định lấp liếm bằng ‘cảm nhẹ’ cơ đấy. Thấy cậu như vậy, Chi-chan nghĩ xem có thể giúp được gì cho cậu không là lẽ đương nhiên, cậu ấy không thể không nghĩ như vậy được, ‘thích’ người khác chính là như thế đấy. Vậy mà cậu xem lại mình, cậu thấy thái độ vừa rồi của cậu như thế nào?”
“… Cực kỳ rác rưởi.”
“Hiểu rồi thì mau chạy theo xin lỗi đi.”
BỐP, lần này khi cánh tay bị đập mạnh, tôi đã lao đi.
Thang máy đang dần lại ở tầng một và mãi không lên, nên tôi đã chạy xuống bằng thang bộ. Vừa ra khỏi tòa nhà, tôi đã thấy bóng dáng của Chiharu ở vỉa hè bên trái cách đó không xa. Chiharu dáng vẻ nghiêm túc bỗng dừng lại, cậu ấy đá nhẹ vào bồn cây bằng bê tông.
“Đừng có đá chứ…”
“Oái!”
Chiharu quay lại nhìn tôi với vẻ mặt không nói nên lời, rồi lúng túng nhìn đi chỗ khác.
“Cậu thấy rồi?”
“Thấy rõ mồn một.”
“Vậy thì không thể để cậu sống được.”
“Không, đâu có nhìn thấy gì đâu.”
Sau một nhịp thở, tôi cúi đầu trước Chiharu.
“… Ban nãy, cho tớ xin lỗi. Tại có nhiều chuyện xảy ra làm cho đầu óc tớ không minh mẫn.”
“Không sao. Tớ cũng có lúc như vậy, tớ hiểu những lúc như thế người ta sẽ không còn giữ được bình tĩnh.”
Vẻ mặt của Chiharu dịu lại, cậu ấy nở một nụ cười dịu dàng. Lời nói ban nãy của Kei vang vọng trong đầu tôi, “Thích người khác chính là như thế đấy”.
“Tớ… Có một người mà tớ đã thích từ rất lâu, cho đến giờ tớ vẫn chưa thể quên người ấy.”
Tôi có cảm giác, mắt Chiharu thoáng rung động. Tôi không biết điều mình đang làm là đúng hay không, nhưng tôi muốn nói ra.
“Nhưng ở một góc khác trong tim, Kei và Chiharu đều là những người vô cùng quan trọng đối với tớ. Trước đây tớ chưa từng nói, nhưng đó là suy nghĩ thật lòng của tớ. Nếu Kei gặp khó khăn, tớ sẽ giúp đỡ. Nếu cậu gặp khó khăn, tớ sẽ chạy đến bất cứ đâu.”
Và một ngày nào đó, tôi muốn nói cho hai người họ biết. Rằng dù tôi vẫn tỏ ra bình thản khi nghe Kei và Chiharu nói về chuyện gia đình, nhưng những người mà tôi gọi là cha và mẹ, thực ra là cha mẹ nuôi đã cưu mang tôi. Rằng Madoka không phải chị ruột của tôi. Và cả chuyện của cha mẹ ruột của tôi nữa.
Và tôi cũng muốn nghe câu chuyện của hai người họ. Lý do Kei muốn trở thành giáo viên tiểu học, những chuyện đã xảy ra trước khi chúng tôi gặp nhau. Và còn rất nhiều, rất nhiều những điều khác về Kei và Chiharu nữa.
“… Cậu nói bất cứ đâu, thực sự là bất cứ đâu sao?”
“… Ừm. À, thực ra tớ sợ độ cao nên mấy chỗ cao cao sẽ mất chút thời gian.”
“Vậy cậu hãy mau tịnh dưỡng rồi đến trường giúp tớ với Kei nhé. Có mỗi cello với viola thôi thì buồn lắm. Với lại, không có cậu thì bọn tớ chẳng làm nên trò trống gì.”
Chiharu mỉm cười rạng rỡ, đó là nụ cười đẹp nhất mà tôi từng thấy của cậu ấy. Tôi bất giác chạnh lòng.
Rồi Chiharu liếc mắt ra sau lưng tôi, vẫy tay nhẹ.
“Xin lỗi nhé vì đã bỏ cậu ở lại nhé, Kei.”
“Chi-chan không cần phải xin lỗi, là do tên Souta đần này cả.”
Cả hai sánh vai bước đi, tựa như những người bạn từ thuở lọt lòng.
“Này Kei, cậu đã nói gì với Souta ư?”
“Đâu có…?”
“Tớ thấy lạ lắm, tự nhiên Souta lại nói mấy lời như vậy.”
“Tớ cũng chịu…”
Nghe thấy tiếng hai người họ thì thầm với nhau, tôi gọi với theo.
“Gặp lại sau nhé!”
Kei và Chiharu quay lại gần như cùng một lúc, vẫy tay thật cao.
Bóng dáng hai người nhanh chóng khuất dạng dưới ánh nắng chói chang của mùa hạ.
*
Sau khi Kei và Chiharu về, tôi cho vào lò vi sóng làm nóng món trứng hấp mà hai người họ mang đến. Vốn chẳng buồn ăn, nhưng khi ăn miếng đầu tiên, tôi có cảm giác như muối và đạm đang ngấm dần vào từng thớ thịt. Giờ nghĩ lại, kể từ khi ăn chiếc bánh hấp và uống hộp sữa được anh Kazuki cho từ trưa hôm qua, tôi đã không bỏ bụng gì trong suốt 24 tiếng đồng hồ.
Chỉ với một món trứng hấp, tâm trí căng đặc những thứ tối tăm nặng nề của tôi đã trở nên nhẹ nhõm đôi chút. Tắm rửa, cạo râu xong, tôi càng thấy thoải mái hơn.
Ngồi xuống chiếc ghế sô-pha trong phòng khách, việc đầu tiên tôi làm là trả lời tin nhắn của anh Ozaki: “Xin lỗi vì đã trả lời muộn ạ, trong người em ổn rồi. Cảm ơn anh vì đã lo lắng”.
Có cuộc gọi nhỡ từ anh Kazuki, nhưng sau một hồi suy nghĩ, tôi quyết định không gọi lại. Madoka cũng gửi mấy tin như “Sao rồi?”, “Còn sống không?”, “Có chuyện gì thì gọi cho chị ngay đấy”, nhưng đằng nào tối nay cũng gặp nên tôi không trả lời.
Tôi cứ ngồi dài trên ghế sô-pha, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ cho thời gian trôi đi. Bầu trời đã chuyển sang màu hổ phách, trong khi vẫn chưa có câu trả lời nào được đưa ra.
Mà rốt cuộc, câu trả lời mà tôi cố tìm kiếm là gì? Là gặp Isuzu cho dù có phải chết, hay là vì sợ chết nên sẽ không gặp Isuzu, là câu trả lời kiểu đó ư?
Khi tôi còn đang chìm trong suy nghĩ giữa căn phòng nhá nhem tối, tiếng “cạch” từ cửa ra vào khiến tôi giật mình.
“Chị về rồi đây. Hầy, nóng ghê. Lâu lắm rồi mới đi bộ ngoài đường lúc trời còn chưa tối đấy.”
Madoka trong bộ đồ công sở chỉnh tề bước vào phòng khách, rồi nhìn tôi ngạc nhiên và nói: “Sao rồi, thấy trong người thế nào?”, đoạn giơ cao chiếc túi ni-lông đang xách trên tay.
“Ơ… Sao chị về sớm thế?”
“Sớm gì đâu, tan làm đúng giờ thôi. Tin dữ đây, hôm nay chị sẽ nấu bữa tối. Cơm trộn chirashi.”
Madoka nói với nụ cười rạng rỡ đến mức có phần gượng gạo, rồi đặt túi xách xuống và đi về phía bếp. Dù chắc chắn đã rất mệt sau một ngày làm việc, chị vẫn lạch cạch lấy thớt và bát ra.
Cho đến nay, Madoka chưa bao giờ về đúng giờ. Huống hồ mới đây, chính chị còn nói mình rất bận rộn sau kỳ nghỉ. Hơn nữa, cơm trộn chirashi cũng là món tôi thích nhất, chỉ sau cà ri.
Lồng ngực tôi nghẹn lại, tôi đứng dậy và tiến về phía nhà bếp.
Hỏi thôi.
Không bây giờ thì khi nào.
“Chị Madoka.”
Nghe tôi gọi, Madoka đang đánh trứng quay lại nhìn tôi với vẻ mặt hết sức ngạc nhiên.
“… Gì thế? Tự nhiên gọi khách sáo vậy?”
“Chị thực sự nghĩ thế nào về em? Chị đã rất ghét em đúng không? Khi mà đột ngột bước vào ngôi nhà này như để thay thế cho vị trí của Yuuta, sau khi cậu ấy mất. Cô chú không nói gì, nhưng em biết là mọi người đã nói những lời tệ bạc trong suốt một tháng rưỡi em mất tích. Có phải vì chuyện đó nên bây giờ chị mới đối xử tốt với em không? Cả bây giờ cũng vậy, thực ra chị vẫn luôn thấy khó chịu trong lòng và đang cố gắng chịu đựng em đúng không?
Lần đầu tiên, tôi nói ra những lời đã luôn giữ kín trong lòng. Chúng tôi sống với nhau như một cặp chị em khá thân thiết, nhưng mối quan hệ của chúng tôi không phải vậy. Tôi được nhận vào nhà Nishijo để thế chỗ cho Yuuta, đáng lẽ Madoka đã phải tránh né một kẻ như tôi. Đối mặt với nhau chỉ đem lại đau đớn, thế nên chúng tôi đã dựng nên bức tường và vờ như không thấy. Không bước sâu vào cuộc sống của nhau, cũng không cho phép người kia bước vào, chúng tôi cứ dùng sự thân mật giả tạo để cho qua từng ngày.
Nhưng có gì đó méo mó. Sống như thế trong khoảng một thời gian dài khiến cho cái giá phải trả cho sự giả tạo đó ngày một tích tụ trong bản thân, và giờ đây nó đang dày vò tôi.
Có lẽ nào, Madoka cũng cảm thấy như vậy? Hay thực ra, chính Madoka mới là người cảm thấy như thế?
Đôi mắt Madoka dao động, chị hơi cúi đầu, tựa vào bồn rửa.
“Khi nghe tin cha mẹ sẽ nhận nuôi cậu, chị đã nghĩ rằng không biết họ đang làm cái quái gì nữa.”
Mái tóc chị buông xuống, tạo thành một tấm màn che đi biểu cảm khuôn mặt.
“Chị đã rất yêu Yuuta. Tuy có lúc hỗn, nhưng nó là một đứa em trai đáng yêu. Vậy mà, một đứa nhóc chỉ mới chín tuổi như nó đã bị sóng thần cuốn trôi đi. Chị đã nhìn thấy cơ thể nát bươm của nó. Chị nghĩ chắc nó phải đau đớn lắm. Chị đã tự hỏi rằng tại sao chuyện như vậy lại xảy ra với Yuuta, đáng lẽ phải ngược lại mới đúng. Lẽ ra Yuuta phải được sống và người chết phải là chị. Khi ấy, mọi thứ trước mắt chị như tối sầm lại, và đó cũng là lúc cha mẹ đưa em về. Chị đã không thể tin nổi. Mỗi lần thấy mẹ chăm sóc em, chị lại thấy bực bội vô cùng. Chị luôn nghĩ rằng ‘A, mẹ đã tìm được người thay thế Yuuta rồi’.”
Đó là lý do giữa tôi và Madoka luôn có một bức tường vô hình. Nếu tôi bắt chuyện, chị sẽ trả lời, đôi khi còn chỉ bài tập cho tôi. Dù vậy, Madoka vẫn luôn từ chối tôi.
“Trong đầu chị hiểu rõ rằng cậu cũng chỉ mới chín tuổi, nhà cửa bị cuốn trôi và cha mẹ đều không còn, cậu chắc chắn phải đau khổ lắm. Vì vậy mỗi sáng thức dậy, chị đều tự nhủ rằng từ giờ mình phải đối xử tốt với cậu. Nhưng mỗi lần nhìn thấy cậu dùng phòng của Yuuta, chị lại thấy uất ức không lý giải nổi, nghĩ rằng ‘Tại sao thằng nhóc này bằng tuổi Yuuta lại được sống, còn em trai mình lại chết’. Dù biết cậu không có lỗi gì, nhưng có những lúc chị thấy căm ghét cậu đến tột cùng. Vì vậy… Chị đã im lặng.”
Giọng Madoka khàn đi, tôi cau mày. Im lặng về chuyện gì…?
“Khoảng một tháng sau khi cậu đến nhà chị, đôi lúc chị có nghe thấy mẹ gọi cậu là ‘Yuuta’. Dù vậy, cậu chỉ im lặng cúi đầu, với vẻ mặt như muốn cầu cứu ai đó. Chị nhận ra đó không phải là lần đầu mà mẹ gọi như thế, có lẽ chuyện đó đã xảy ra rất nhiều lần rồi.”
Tôi nín thở. Madoka ngẩng đầu lên, mái tóc dài buông xuống để lộ khuôn mặt chị. Từ đôi mắt đỏ hoe sưng húp, những dòng nước mắt lăn dài trên má.
“Nhưng chị đã im lặng, chị không muốn tin rằng mẹ mình đã làm một chuyện như vậy. Và chị cũng sợ rằng liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu chị ngăn mẹ lại, khi bà ấy cuối cùng cũng đã nở nụ cười sau một khoảng thời gian dài. Chị không thể nói với cha, vì nếu nói chắc chắn ông ấy sẽ trách mẹ. Hơn nữa, chị đã nghĩ rằng ‘Chỉ là một cái tên thôi mà, thôi thì cứ chịu đựng đi’. Cậu vẫn còn sống. Dù đã mất đi cha mẹ ruột, nhưng cậu đã được cha mẹ chị nhận nuôi, được dùng phòng của Yuuta, được sống cả phần đời mà Yuuta không thể sống. Nên chỉ cần chịu đựng một chút thôi, có gì khó đâu… Chị đã vờ như không thấy nỗi đau của cậu.”
Giọng Madoka khẽ run lên: “Vì vậy mà có lẽ quả báo đã đến với chị.”
“Khi cậu đột nhiên mất tích, chị đã nghĩ như thế. Vì chị đã không trân trọng cậu, đã đối xử tồi tệ với cậu, thế nên chị mới phải nhận quả báo. Suốt một tháng rưỡi, chị đã sống trong nỗi sợ hãi. Chị sợ lỡ như cậu gặp chuyện bất trắc ở đâu đó, sợ rằng nhỡ như cậu đã chết thì sao. Vì vậy, khi cậu đột nhiên được tìm thấy ở mũi thần Giáng, chị đã vui mừng đến mức quỳ xuống mà khóc.”
Lúc tôi tỉnh lại ở phòng khám tạm thời của thị trấn Kuratsu, người đầu tiên mà tôi nhìn thấy chính là Madoka. Chị ấy nhìn tôi bằng đôi mắt không thể tin được, giọng run rẩy gọi tôi.
“Sau chuyện đó, chị đã quyết định rằng mình sẽ rời khỏi nhà sau khi tốt nghiệp cấp ba. Chị nghĩ rằng mình phải trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn, nếu không thì chị sẽ lại làm tổn thương cậu. Có lẽ… Cũng có một phần là do chị muốn chạy thoát khỏi cái thị trấn mà mỗi sáng thức dậy đều phải nhớ lại rằng Yuuta và biết bao nhiêu người đã phải chết. Ban đầu khi đến Sendai, chị cũng chẳng có mấy thay đổi. Nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, tìm việc rồi vào làm công ty, chị đã trở nên mạnh mẽ hơn một chút so với hồi đó. Mười năm cũng đã trôi qua kể từ trận động đất ấy. Và rồi đúng lúc đó, chị nghe cha mẹ nói cậu sẽ học đại học ở Sendai, chẳng hiểu sao chị đã buột miệng nói ra. Rằng thuê phòng mới sẽ tốn tiền, nên cứ đến ở chung với chị là được.”
Madoka vừa đưa mu bàn tay xoa đôi mắt đỏ hoe, vừa nở một nụ cười khổ.
“Vậy mà dù chính mình là người đã đề xuất ý tưởng đó, vậy mà khi đến đón cậu ở ga Sendai, chị lại thấy hồi hộp kinh khủng. Chị đã đến sớm tận ba mươi phút… Rồi chị thấy cậu, vai đeo ba-lô, lững thững bước tới. Cậu nhìn chị với khuôn mặt tựa như một chú chó hoang cô độc bị bỏ rơi. Khoảnh khắc ấy, chị đã nghĩ: ‘A, mình chưa bao giờ thực sự đối xử tốt với thằng bé này’.”
Tôi vẫn nhớ rất rõ Madoka của ngày hôm đó. Nhìn thấy tôi căng thẳng tiến lại gần, chị đã cười toe toét như thể vừa gặp lại đứa em trai thân thiết đã lâu ngày xa cách.
“Yo, đã lâu không gặp. Vẫn khoẻ chứ?”
Nhờ vậy mà tôi, lúc đó đang cứng đờ người, bỗng cảm thấy nhẹ nhõm và có thể đáp lại như thể đang gặp lại một người chị khá thân sau một thời gian dài.
“Chị xin lỗi, chị đúng là ích kỷ nhỉ. Lúc cậu đau khổ nhất thì chị chẳng làm gì, chẳng giúp đỡ gì, vậy mà giờ chị lại ra vẻ như mình là một người chị thực thụ.”
Có lẽ lúc đang ôm mặt khóc nức nở, Madoka đã không thấy tôi lắc đầu.
Sau khi lau nước mắt, chị hít thở sâu vài lần, rồi nhìn thẳng vào tôi.
“Souta. Cậu đi làm thêm suốt, là để kiếm tiền dọn khỏi đây nhỉ.”
Tôi giật thót, có lẽ vẻ mặt của tôi lúc đó trông rất tội lỗi. Madoka nói tiếp.
“Không sao cả. Dù cậu muốn làm gì, muốn sau này sống như thế nào, cậu cứ làm theo ý mình. Nhưng nếu cậu muốn rời đi với lý do cảm thấy tội lỗi với chị, hay vì chúng ta không phải chị em ruột, thì ít nhất trong bốn năm tới, xin cậu hãy quên đi những điều đó. Như chị đã nói lúc trước, khoảng thời gian hiện tại thực sự là khoảng thời gian tự do và quý giá. Hãy trân trọng và tận hưởng nó hết mình. Cha mẹ cũng nghĩ như vậy đấy.”
Đôi mắt Madoka nhìn tôi với vẻ đầy tha thiết.
“Đợt trước khi về quê, chị đã cùng cha mẹ viếng mộ Yuuta và có nói chuyện về cậu. Có lẽ sắp tới hai người họ sẽ rời khỏi thị trấn Kuratsu, vì sức khỏe của bà nội sống ở Yamagata dạo này không được tốt.”
“Hở…”
“Nhưng ngay cả sau khi cha mẹ rời đi, căn nhà của chúng ta ở đó vẫn sẽ còn mãi. Cậu có thể trở về đó bất cứ lúc nào. Không phải là bắt cậu kế nghiệp hay gì đâu nhé. Cậu có thể trở thành bất cứ ai mà cậu muốn, đi đến bất cứ nơi nào mà cậu thích. Hãy tự do sống cuộc đời của mình. Nhưng, nếu một ngày nào đó cậu muốn quay về, cậu luôn có thể trở về căn nhà đó. Căn phòng này của chị cũng vậy. Tuy chúng ta không phải là người thân ruột thịt, nhưng chúng ta là một gia đình.”
Rồi Madoka cụp mắt xuống. Những giọt lệ trong suốt tiếp tục lăn dài trên má.
"Mẹ đã khóc… Mẹ nói rằng mình đã làm một điều thật khủng khiếp với cậu khi còn nhỏ. Rằng mẹ đã không thể bảo vệ Yuuta, đã để nó phải chết, đã để bản thân đau khổ đến mức gần như hóa điên. Nhưng dù vậy, điều đó không có nghĩa chúng ta có thể khiến cậu phải chịu sự đau khổ đó. Cậu không cần phải tha thứ cũng được, dù có bị cậu oán hận, cả chị và mẹ sẽ cam lòng. Chỉ là..."
“Em không oán hận gì cả.”
Madoka ngẩng mặt lên. Khuôn mặt với đôi mắt đỏ hoe của chị ấy nhìn như một đứa trẻ.
“Oán hận gì chứ. Tại sao em phải… Với lại, thời gian em sống cùng chú và dì đã dài hơn khoảng thời gian em sống cùng cha mẹ ruột rồi mà.”
Đúng là đã có những lúc tôi mang trong mình cảm xúc đó. Cũng không thể nói rằng bây giờ chúng đã biến mất hoàn toàn, nhưng mà…
Tôi đã sống cùng cha mẹ ruột mà mình vô cùng yêu quý trong chín năm. Và rồi tôi được gia đình Nishijo nhận nuôi và đã sống cùng họ mười năm. Dĩ nhiên, tôi không phải là con ruột hay em ruột của họ. Giống như tôi có những cảm xúc phải che giấu, chắc hẳn chú, dì, và cả Madoka cũng có những tâm sự thầm kín. Dù vậy, tôi đã được họ yêu thương chăm sóc. Kể từ khi bắt đầu sống cùng Madoka ở Sendai, tôi mới thấm thía rằng, chỉ riêng việc lo cho ai đó ăn cơm mỗi ngày thôi cũng đã là một việc vô cùng vất vả. Suốt mười năm trời, cha mẹ nuôi đã làm tất cả những công việc vất vả trong cuộc sống thường nhật đó vì tôi. Dù cho tấm lòng thật sự của hai người có ra sao, thì đối với tôi, chính những hành động trong suốt mười năm đó đã là tình yêu thương mà họ dành cho tôi. Như vậy là đủ rồi.
Vì đã nhận được quá đủ rồi, vì không thể nhận thêm được nữa, nên tôi đã quyết định rời khỏi thị trấn ấy.
Bây giờ, khi nghe đến hai từ “gia đình”, những người đầu tiên hiện lên trong đầu tôi chính là gia đình Nishijo. Khi tôi muốn trở về, những người ở đó chính là những người đã cho tôi được làm con trai và em trai của họ.
“… Chị có thể thỉnh cầu một chuyện chứ?”
Madoka cố gắng nở một nụ cười, nhưng nó trông thật gượng gạo.
“Đừng chết sớm như Yuuta nhé. Chị biết ai rồi cũng sẽ chết thôi. Nhưng chị thực sự không muốn chuyện đó xảy ra nữa. Chị không muốn nó xảy ra thêm một lần nào nữa đâu…”
Những lời cuối cùng bị nhấn chìm trong tiếng nức nở, và Madoka bật khóc.
Tiếng khóc của chị ấy nghe thật đau khổ, quặn thắt biết bao. Tôi bất giác kéo chị vào lòng. Tôi là con trai, Madoka là con gái, nhưng giữa chúng tôi không hề có chút ngại ngùng giới tính nào. Trước mắt tôi chỉ là một cô gái không thể khóc đúng nghĩa trong suốt thời gian qua, và vì lúc này tôi là một người con trai mạnh mẽ hơn chị ấy, nên tôi nhẹ nhàng vỗ về tấm lưng đang run lên vì nấc.
“Đừng đột ngột biến mất như Yuuta nhé.”
Giọng nói nghèn nghẹt thì thầm bên tai tôi.
Hình ảnh của Isuzu hiện lên trong tâm trí tôi. Lúc cô ấy nấu cà-ri cho tôi, lúc cô ấy dạy violin cho tôi, lúc cô ấy xoa đầu tôi. Cô ấy, người mà tôi đã nghĩ rằng sẽ không thể nào gặp lại nữa, đang ở đâu đó trên thế giới này.
“Chị xin cậu…”
Nhưng giọng của Madoka nghe tha thiết đến mức, tôi chỉ có thể đáp lại bằng một giọng nói lí nhí.
“Ừm.”
3
Sáng kế tiếp, sau khi tiễn Madoka đi làm, tôi đã gửi tin nhắn cho bà chủ của Alphard. Trong người em khỏe hơn rồi, cảm ơn chị đã lo lắng, tuần sau em sẽ làm việc trở lại.
Tôi cũng đã liên lạc với Kei và Chiharu. Tớ khỏe rồi, cảm ơn các cậu đã đến thăm, hôm nào lên lịch luyện tập lại nhé.
Tôi cũng gửi tin nhắn cho anh Ozaki. Cảm ơn anh vì đã lo cho em, tuần sau em sẽ đi làm lại ạ. Với lại, món xá xíu ngon lắm. Chị em nói muốn đi uống chung với anh lần nữa.
Sau đó, tôi giải quyết đống đồ bẩn chất đống và dọn dẹp nhà cửa. Cứ thế, khi thu dọn những điều vụn vặt trong cuộc sống thường nhật, tôi có cảm giác như chuyện của năm 2030 và Isuzu đang dần xa đi.
Điều đó khiến lòng tôi đau như bị dao cắt. Nhưng mặt khác, cũng có phần trong tôi bắt đầu nghĩ rằng có lẽ nên để nó trôi đi như thế sẽ tốt hơn.
Vì không có tiếng động sẽ rất buồn chán, nên tôi cứ để tivi bật trong khi quét dọn phòng khách.
Dọn dẹp xong, khi tôi định ngẩng mặt lên để rút phích cắm, tôi thấy tivi đang chiếu cảnh của một khu nghỉ dưỡng nước ngoài. Tuy nhiên, những hàng dừa bao quanh bãi biển, những chiếc xe hơi đỗ trên đường, và cả khu phố với những tấm biển hiệu chi chít chữ không đọc được đều ngập chìm trong nước. Lũ lụt sao? Trong lúc tôi còn đang ngạc nhiên thì giọng nói từ TV vang lên:
"Do ảnh hưởng của tình trạng nóng lên toàn cầu trong những năm gần đây, mực nước biển dâng cao đã gây ra những thiệt hại ngập lụt như thế này vào những ngày triều cường..."
Triều cường.
Trong đầu tôi có cảm giác như dây E của đàn violin vừa được kéo.
“Ngày hôm đó, do động đất mà vùng này cũng đã xảy ra sóng thần cao gần một mét, Isuzu lúc đó đang ở mũi Thần Giáng đã bị đuối nước. Chồng Isuzu đã lao xuống biển để cứu em ấy… Isuzu thì được cứu, nhưng còn chồng thì bị sóng cuốn đi mất. Dù cậu ấy là người có bằng cứu hộ hẳn hoi… Nhưng có lẽ do hôm ấy là ngày triều cường, sóng dâng cao nên mới ra nông nỗi.”
Triều cường và… động đất?
Tôi vội vã truy vết lại ký ức. Vào nửa đêm ngày 17 tháng 6 năm 2011, cái đêm mà tôi trốn khỏi nhà Nishijo để đến mũi Thần Giáng, tôi đã thấy một vầng trăng tròn. Mặt biển dưới nước lấp lánh ánh trăng và mực nước dâng cao hơn thường lệ. Tôi đã bơi vào vết nửa của tảng đá bị nứt làm đôi, giữa đường thì bị một rung chấn dữ dội ập đến, và khi tỉnh lại thì tôi đã ở năm 2030.
Tiếp theo, vào ngày 31 tháng 7 năm 2030, là ngày tôi trở về năm 2011. Ngày hôm đó, tôi cũng bị một cơn rung chấn dữ dội nhấn chìm ở mũi Thần Giáng. Mặt trăng khi đó thế nào…? Chịu rồi, nó không có trong ký ức. Lúc tôi đến mũi Thần Giáng là vào ban ngày, không thể thấy mặt trăng vào lúc đó được.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, tôi lấy điện thoại ra tìm kiếm. Triều cường, tuần trăng. Lịch tuần trăng, đây rồi. Trang web này cho phép điều tra lịch tuần trăng của bất cứ thời điểm nào chỉ bằng việc nhập ngày tháng năm. Tôi lập tức nhập “17/6/2011”. Kết quả đúng như tôi dự đoán.
Tiếp theo, tôi nhập “31/7/2030”. Khi kết quả hiện ra, tim tôi bắt đầu đập nhanh.
Thì ra là vậy sao? Cái ngày mà tôi đến tương lai, lẫn cái ngày mà tôi trở về hiện tại, hóa ra lại có mối liên kết như thế này?
Khi tôi còn đang đứng chết trân, bỗng chiếc điệ nhoại trên tay rung lên một tiếng. Giật mình, tôi nhìn thẳng vào màn hình điện thoại. Đó là cuộc gọi từ dì Nishijo. Tôi không thể bắt máy ngay được, nếu có người khác ở cùng thì tôi có thể. Nhưng mỗi khi chỉ có hai dì cháu, trái tim tôi quặn thắt lại. Dù đã là chuyện của mười năm về trước, nhưng tiếng gọi “Yuuta” vẫn văng vẳng bên tai tôi.
Nhưng tôi cũng không thể ngó lơ mãi được. Hít thở sâu, tôi áp điện thoại vào tai.
“… Alo ạ.”
“A, Souta hả con. Đã lâu không gặp.”
Giống như tôi, giọng của dì cũng có vẻ căng thẳng.
“Xin lỗi vì mới sáng đã gọi cho con nhé, hôm qua Madoka có gọi điện hỏi dì nên nấu món gì cho con ăn vì con thấy không khỏe trong người, nên dì thấy lo thôi. Con ổn rồi chứ?”
Tôi ngạc nhiên nhớ lại bữa tối hôm qua. Sau khi Madoka nín khóc, cả hai đã cùng nhau bắt tay vào làm món cơm trộn chirashi với sashima và trứng thái sợi. Hóa ra đó là ý tưởng của dì sao.
“… Vâng, con ổn rồi. Xin lỗi vì đã khiến dì lo lắng.”
“Không sao, con không sao là tốt rồi. Xin lỗi vì đã đột nhiên gọi cho con nhé, dì cúp máy đ…”
Giọng của dì ngày một nhanh hơn, tôi biết dì sắp sửa cúp máy.
“Dì ơi.”
Ngap lập tức, tôi gọi dì lại.
“… Con xin lỗi, vì không mấy khi liên lạc. Cả thư từ cũng không trả lời nữa.”
“Có sao đâu, con không cần để ý mấy chuyện đó…”
Dì nói với vẻ vội vã, nhưng giữa chừng lại im bặt. Đó là một sự im lặng thật dài và sâu lắng. “Souta này”, giọng nói tĩnh lặng của dì cất lên.
“Suốt thời gian ở nhà dì, con lúc nào cũng để ý và lo lắng cho mọi người. Nhưng mà, đủ rồi con ạ. Con đã được tự do rồi. Con không cần phải e dè trước bất kỳ ai, hãy sống một cuộc đời mà mình muốn. Khi con trở về vào ngày hôm ấy, dì đã quyết định rằng mình sẽ làm mọi thứ để con được sống một cuộc đời như thế.”
“Tạ ơn trời đất! Tạ ơn trời đất! Tạ ơn trời đất!” – Giọng nói của dì khi ôm chằm lấy tôi vào ngày hôm ấy, bỗng vang vọng bên tai.
“Khi con đột nhiên biến mất, dì đã nghĩ rằng chính dì là người đã khiến con bỏ nhà đi. Dì nghĩ rằng vì mình đã làm một điều tàn nhẫn, khi bắt một đứa trẻ vô tội như con phải gánh thay nỗi khổ của mình, thế nên con mới bị ông trời mang đi mất. Ba ngày, rồi một tuần, dù có tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy dấu vết của con, trái tim dì khi đó như muốn tan vỡ. Đêm nào dì cũng thành khẩn cầu nguyện. Nếu người cho thằng bé bình an quay trở về, lần này con sẽ dùng cả tính mạng để trân trọng nó. Và rồi, con đã quay về trong bình an.”
Giọng dì vào phút chót run lên dữ dội, xen lẫn vào những tiếng nấc đau khổ. Nắm chặt điện thoại trong tay, tôi như thấy được hình ảnh dì đang co người lại mà khóc.
“Thế nên, đã quá đủ rồi. Con đã trở về trong bình an, đã ở cùng chúng ta trong suốt mười năm qua. Hẳn con đã phải chịu đựng rất nhiều điều nhỉ? Cho nên kể từ giờ, con hãy sống một cách tự do mà không cần phải bận tâm về điều gì cả. Như vậy là quá đủ với con rồi.”
Lắng nghe tiếng khóc nức nở của dì, tôi ước gì mình có chiếc điện thoại MR ở năm 2030. Nếu có nó, hẳn là tôi đã có thể vỗ về tấm lưng của người dì đang ở đầu bên kia.
“Dì thực sự đã đối xử rất tệ với con, dì thực sự xin lỗi. Cảm ơn con vì đã làm con nuôi của chúng ta…”
Tôi nhìn ra cửa sổ, ánh nắng mùa hè chói chang đang chiếu rọi qua tấm rèn.
Trong ánh sáng ấy, tôi cảm nhận được tảng băng giá lạnh suốt bây lâu trong sâu thẳm thâm tâm, đang dần tan chảy.
“Dì ơi. Trong suốt thời gian mất tích, con đã ở cùng một người phụ nữ. Cho đến tận lúc quay về, con đã được chị ấy yêu thư và chăm sóc hết mực.”
Sau một khoảnh khắc im lặng, giọng dì vang lên.
“Là người phụ nữ con đã gặp ở tương lai…?”
“Vâng, mặc dù con biết không có ai tin đâu…”
“Dì tin con.”
Giọng dì rất bình tĩnh.
“Dì không biết tương lai đã xảy ra chuyện gì, nhưng dì tin rằng người đó đã hết lòng chăm sóc cho con. Một đứa trẻ chín tuổi mất tích suốt một tháng rưỡi, chẳng ai tin con có thể bình an vô sự cả. Thế nhưng, con đã quay trở về, không mảy may một vết xước, không hề gầy gò hay ốm yếu. Người đó đã rất yêu thương con nhỉ.”
Lòng nghẹn lại, tôi nhắm mắt. Đúng vậy. Tôi đã được yêu thương, được che chở.
“Chị ấy nói rằng con là một đứa nhóc ngoan. Và lý do mà con có thể chia sẻ những điều tốt đẹp của mình cho người khác, là bởi vì dì và mọi người đã luôn yêu thương con.”
Liệu những điều tôi muốn nói, đã được truyền tải một cách trọn vẹn? Sau một hồi, đầu dây bên kia vọng lại một tiếng thút thít khe khẽ. Vì không thể vỗ về tấm lưng, tôi dồn hết mọi tâm tư của mình và nói:
“Cảm ơn dì, vì khi ấy đã đến khu di tản để đón con. Kỳ nghỉ đông lần tới, con sẽ về nhà, cùng với chị Madoka.”
Cảm ơn dì ạ. Nói xong, tôi cúp máy.
Sau đó, tôi vào bếp và uống một cốc nước. Thứ nước trong vắt ấy như đang thấm vào từng ngóc ngách cơ thể tôi. Thở ra một hơi, tôi đút vội điện thoại và ví vào túi rồi đi ra cửa.
Vừa bước ra khỏi lối vào chung cư, một tia nắng chói chang chiếu tới. Dù chỉ mới là buổi sáng mà trời đã khá nóng. Tôi hạ quyết tâm và cất bước, rồi chợt để mắt đến ô cửa kính trưng bày của một cửa hàng thời trang ven đường.
Bóng hình mờ ảo của tôi phản chiếu trên đó. Có lẽ do ánh sáng, khuôn mặt của tôi trông có chút u tối. Có lẽ nào, tôi của tám năm sau sẽ trông như thế sao?
Này.
Tôi của tương lai qua lời kể của mọi người, đó có thực sự là tôi không?
Một đứa dễ dàng dao động và lạc lối như tôi, liệu có thể làm những việc vĩ đại như bảo vệ người mà mình yêu thương? Nhưng nếu anh thực sự là tôi, nếu tôi chính là anh, thì tôi biết một điều rằng anh đã không bỏ cuộc cho đến giây phút cuối cùng.
Nhắm mắt trước ánh nắng chói chang của mùa hè, tôi hít một hơi thật sâu, rồi bắt đầu chạy hết sức bình sinh. Một bà cô đi ngang đã nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Xin lỗi nhé, nhưng bây giờ một giây cũng quý. Vừa chạy, tôi vừa đưa tay vào túi quần và lấy điện thoại ra. Bấm gọi vào số máy mà tôi chỉ mới gọi được hai lần. Tiếng chuông kéo dài, và khi đến hồi thứ tư, một giọng nói vang lên.
“Alo.”
Sự do dự trong tôi chưa biến mất. Ngay cả bây giờ tôi cũng không biết đâu là điều đúng đắn.
Nhưng tôi, tuyệt đối sẽ không hối hận.
*
Lần thứ ba bước vào tòa nhà câu lạc bộ, tại một căn phòng trên tầng cao nhất, anh Kazuki đang đợi tôi. Tôi gõ nhẹ vào cánh cửa dày, bên trong vọng ra một tiếng “Mời vào”. Khi bước vào, tôi thấy anh Kazuki đang ngồi trước một cây đại dương cầm màu đen bóng.
“Xin lỗi vì đã đột ngột gọi anh.”
“Không sao, dù gì thì sáng giờ anh cũng ngồi đây chơi piano.”
Căn phòng bật điều hòa mát lạnh. Đối với một đứa dội nắng như tôi, nơi đây mát lạnh chẳng khác gì như đang ở bên trong tủ lạnh. Anh Kazuki mặc chiếc áo sơ-mi xanh, ngồi trên ghế đàn và ngước nhìn tôi.
Tôi cố tìm câu từ để mở đầu câu chuyện, nhưng có lẽ anh Kazuki đã biết tôi đến đây để nói chuyện rồi. Vì vậy, tôi quyết định nói thẳng.
“Em sẽ đi tìm chị Isuzu.”
“Ừm, nhìn thôi anh cũng đoán được rồi.”
Anh Kazuki đưa mắt xuống những phím đàn trắng đen, kèm theo một tiếng thở dài gần như không thể nghe thấy.
“Anh nghĩ mình cũng đã nói hết nước hết cái để khuyên em rồi ấy chứ.”
“Em xin lỗi, nhưng xin anh hãy nghe em. Anh Kazuki, có lẽ em đã biết cách để đi đến tương lai rồi ạ.”
Anh Kazuki khoanh tay trước bụng, hướng mặt về phía tôi. Vẻ mặt anh ấy nửa ngơ ngác, nửa hoài nghi.
“Ý em là sao?”
“Ngày 17 tháng 6 năm 2011, lúc em đến mũi Thần Giáng, mặt trăng khi ấy to như trăng rằm. Em đã kiểm tra lại trên lịch tuần trăng, nói đúng hơn thì hôm sau mới là ngày trăng rằm, nhưng nói chung thì vào nửa đêm hôm đó, khi em xuống biển thì đột nhiên có một trận động dất, rồi em bị sóng đánh rồi suýt chết đuối, đến lúc được chị Isuzu cứu thì em đã ở năm 2030 rồi.”
Anh Kazuki im lặng lắng nghe. Tôi một lần nữa hít thật sâu để ổn định lại tinh thần.
“Rồi ngày em trở về đây, là vào 31 tháng 7 năm 2030. Hôm đó, tuy vẫn đang quá trưa, nhưng em nhớ mực nước ở mũi Thần Giáng khi ấy cao hơn thường lệ. Em đã tra thử và biết rằng sau ngày hôm đó là ngày trăng non. Cả hai ngày định mệnh đều có triều cường. Triều cường xảy ra vào trước và sau ngày trăng rằm lẫn trăng non. Ngày 31 tháng 7, quả nhiên lại có một trận động đất trong lúc em đang ở dưới biển, khi nhận ra thì em đã quay về năm 2011.
Vẻ mặt của anh Kazuki cho thấy anh dần hiểu ra. Tôi gật đầu.
“Em đã luôn nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có thể biết được cách đi đến tương lai, lẫn cách quay trở về quá khứ. Nhưng giờ khi nghĩ lại, giữa chúng có một vài điểm chung. Ngoài địa điểm là mũi Thần Giáng, thì còn có triều cường, động đất, có lẽ là cả mùa… Nhưng dù sao thì có lẽ đây chính là cách.”
“Anh đã hiểu câu chuyện rồi, nhưng vậy thì sao? Chẳng phải chị Isuzu đã được sinh ra rồi ư? việc đi đến tương lai bây giờ đâu còn ý nghĩa…”
“Hãy nghe em nói thêm ạ. Có lẽ em của năm 2030 vẫn chưa chết.”
Đôi mắt anh Kazuki mở to. Tôi nhớ lại.
"Ngày hôm đó, do động đất mà vùng này cũng đã xảy ra sóng thần cao gần một mét, Isuzu lúc đó đang ở mũi Thần Giáng đã bị đuối nước. Chồng Isuzu đã lao xuống biển để cứu em ấy… Isuzu thì được cứu, nhưng còn chồng thì bị sóng cuốn đi mất. Dù cậu ấy là người có bằng cứu hộ hẳn hoi… Nhưng có lẽ do hôm ấy là ngày triều cường, sóng dâng cao nên mới ra nông nỗi.”
Cô Marie, chủ của “Quán Mokamatori”, đã kể như vậy.
“Trong suốt thời gian ở năm 2030, vì em không hề nghĩ chồng của chị Isuzu là mình nên đã không hỏi xem người đó mất tích vào ngày nào tháng nào. Nhưng em có nghe kể rằng ngày hôm đó xảy ra một trận động đất và cũng có triều cường. Nếu nguyên nhân em đi đến tương lai là đúng như em nghĩ, thì ngày mà năm 2029 em mất tích cũng hội tụ đủ những điều kiện tương tự.”
“… Nghĩa là em của tương lai, đã du hành đến một dòng thời gian khác?”
“Đúng vậy. Cho nên dù có tìm kiếm thì cũng không thấy thi thể hay dấu vết của em. Trước đây anh cũng đã từng nói, việc hai con người tồn tại trong cùng một thời điểm là vô lý, nếu như em của tương lai đã đi đến dòng thời gian khác, vậy thì em của năm chín tuổi có đi đến năm 2030 cũng sẽ không gây ra mâu thuẫn.”
Từ đâu đó xa xăm, tiếng còi cao và lanh lảnh vọng lại.
Anh Kazuki, người thông minh gấp trăm lần tôi, dường như đã tiêu hóa xong câu chuyện hoang đường này.
“Em của tương lai có lẽ chưa chết mà chỉ đang ở một dòng thời gian khác, vì vậy mà dù có đi gặp chị Isuzu thì em cũng sẽ không sao. Đó là điều em muốn nói nhỉ?”
“Em không dám chắc là mình sẽ không sao, nhưng em nghĩ có khả năng đó. Hơn nữa, em nghĩ mình có thể lập kế hoạch. Em của năm chín tuổi đã nghe câu chuyện về chồng của chị Isuzu vào khoảng đầu tháng 7 năm 2030. Khi ấy, những người tại đó cũng nói đã gần tròn một năm kể từ vụ tai nạn, nên em nghĩ em của tương lai đã mất tích vào khoảng từ tháng 7 cho đến tháng 8 năm 2029. Vì hôm đó cũng rơi vào ngày triều cường, nên có thể dự đoán đó là khoảng ngày nào giữa tháng 7 và tháng 8. Nếu vậy, em nghĩ mình có thể chuẩn bị nhiều phương án để mình không phải chết, chẳng hạn như không ra biển vào ngày hôm đó.”
“Có thể, nhưng anh nghĩ nó sẽ phản tác dụng. Biết đâu khi ngày xảy ra tai nạn vào năm 2029 đến gần, em sẽ lo lắng biết đâu ai đó sẽ gặp nạn, rồi cuối cùng vẫn sẽ đi đến đó.”
Tôi nhìn chằm chằm vào ánh mắt phản đối của anh Kazuki, rồi bất giác bật cười. anh Kazuki nhíu mày.
“Em cười chuyện gì?”
“Em chỉ nghĩ là, hóa ra trong mắt anh, em cũng là một đứa không đến nỗi.”
“Hả? Ai nghĩ thế, em bị ngốc à?”
Thấy anh Kazuki có vẻ bực mình, tôi lại càng cười to hơn. Sau đó, tôi thở ra một hơi. Thật kỳ lạ, cảm giác giằng xé chỉ vừa mới đây đã biến mất.
“Em không có ý nói rằng nếu hội tụ đủ điều kiện thì em sẽ không chết, và vì thế mà mọi chuyện sẽ ổn. Em cũng không biết những điều kiện đó có thực sự đúng hay không, và có lẽ tương lai của em đã chết thật cũng nên. Nhưng dù rơi vào khả năng nào đi nữa, em cũng sẽ đi tìm chị Isuzu. Dù có mất bao nhiêu thời gian, em cũng muốn gặp lại chị ấy thêm một lần nữa.”
“Dù biết sẽ có nguy hiểm? Chỉ cần gặp lại thì em sẵn sàng đón nhận cái chết? Lỡ em có gặp mệnh hệ gì, những người còn lại sẽ cảm thấy thế nào?”
“Anh Kazuki, em chưa từng nói rõ với anh, nhưng em là trẻ mồ côi do thảm họa động đất. Cha mẹ ruột của em đều mất trong thảm họa đó, và em được gia đình chị Madoka nhận nuôi. Madoka và em không phải chị em ruột.”
Đôi mắt anh Kazuki lại mở to. Trong khoảnh khắc, cái cảm giác mặt đất rung chuyển như thể đang vỡ vụn ra từ tận cùng trái đất, cái cảm giác con sóng đen ngòm ập đến thị trấn, như lướt qua trong tâm trí tôi và sóng lưng tôi lạnh toát.
“Vì vậy, em nghĩ mình hiểu được cảm giác của người bị bỏ lại là như thế nào. Người đã cứu vớt em khi chỉ còn một mình, chính là chị Isuzu. Không chỉ cứu giúp một em không hề biết gì khi đến tương lai, mà cô ấy còn cứu rỗi cả tâm hồn của em. Không chỉ chị Isuzu, em cũng đã được nhiều người giúp đỡ, thế nên em mới không chết và sống được tới tận bây giờ. Có lẽ sau này em cũng sẽ sống, và trong khoảng thời gian đó, cho đến ngày mà em chết, nếu em được phép có được hạnh phúc… Thì em muốn ở bên chị Isuzu.”
Như đang lật từng trang của cuốn album, khuôn mặt của Isuzu hiện lên trong tâm trí tôi. Khuôn mặt đầy lo lắng khi cứu tôi ở con biển, khuôn mặt cười toe toét của một đứa trẻ tinh quái, lẫn khuôn mặt vừa khóc vừa hét lên “Đừng đi”.
Đúng vậy, tôi đã yêu người con gái đó. Yêu đến mức lồng ngực nhói đau.
“Như lời anh nói, để em không phải chết, chị Isuzu vào năm 2030 có lẽ đã sắp đặt để em và chị ấy không gặp nhau sau này. Em rất biết ơn vì đã được chị ấy yêu thương đến nhường đó. Dù biết ơn, nhưng đó không phải là điều em muốn. Em không muốn chỉ vì để mình được cứu mà phải xóa bỏ mọi thứ. Cái gọi là ‘Việc chúng ta không gặp nhau mới là đúng đắn’, em tuyệt đối không chấp nhận điều đó.”
“Sau khi trở về, hãy quên chị đi nhé”. Giọng nói của Isuzu lại vang lên trong tâm trí. Không, em sẽ không quên. Mang theo tình cảm không hề phai nhạt trong suốt mười năm qua, em nhất định sẽ chạy đến bên chị.
“Em sẽ đi gặp chị Isuzu, nhưng em không muốn chết một cách dễ dàng. Em biết mất đi người mình yêu thương là cảm giác đau đớn đến mức nào, thế nên em không muốn những người quan trọng của mình phải trải qua cảm giác đó. Vì vậy, dù có chuyện gì xảy ra, em nhất định cũng sẽ vùng vẫy cho đến cùng để không phải chết. Em nghĩ em của tương lai cũng nghĩ như vậy. Dù cho em của tương lai đã ra sao, người đó chắc chắn sẽ không bỏ cuộc cho đến giây phút cuối cùng.”
Phải vào vấn đề chính thôi. Tôi lấy hết can đảm, nhìn thẳng vào anh Kazuki.
“Hôm nay em gặp anh, là vì có chuyện muốn nhờ anh.”
“… Chuyện muốn nhờ?”
“Em nhất định sẽ gặp chị Isuzu, dù có mất bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Và thật tình thì em cũng không thể tưởng tượng rằng chuyện em nghĩ đến tiếp theo có thể xảy ra. Anh Kazuki, nếu tồn tại dù chỉ một khả năng nhỏ nhất để em có thể ở bên chị Isuzu mãi mãi, xin anh hãy giúp em để em không phải chết vào năm 2029.”
Đôi mắt anh Kazuki tròn xoe kinh ngạc, vẻ mặt hoàn toàn ngơ ngác.
“Giúp? Ý em là sao?”
“Phải làm gì và phải làm thế nào thì em vẫn chưa biết, nhưng em muốn anh tiếp tục đồng hành cùng em. Cho đến năm 2029, không, nếu được thì xa hơn nữa. Em muốn anh hãy cùng em suy nghĩ phải làm sao để chị Isuzu không cảm thấy buồn, phải làm sao để dù có gặp chị Isuzu thì em cũng không phải chết. Tất nhiên, em cũng sẽ cố gắng hết sức mình. Em gặp tai nạn ở tương lai là vào khoảng ngày nào đó xuất hiện triều cường từ tháng 7 cho đến tháng 8. Em đã biết đến đó, thế nên em sẽ nỗ lực hết sức để khiến cho không cho chuyện gì bất trắc xảy ra. Nhưng nếu em ở tương lai không mất tích, thì khi em của năm chín tuổi đến năm 2030, sẽ có hai phiên bản của em ở hai độ tuổ khác nhau ở cùng một thời điểm. Nghĩ đến đây là đầu em bắt đầu rối như mớ bòng bong, đó là một nghịch lý không thể xảy ra. Nếu vậy, có lẽ dù có cẩn thận đến mức nào thì số phận cũng cũng sẽ khiến em gặp tai nạn và mất tích.”
Nói không sợ thì là nói dối. Nói không do dự cũng không đúng. Ngay cả bây giờ tôi vẫn sợ hãi và do dự. Nhưng, còn mạnh mẽ hơn cả những cảm xúc đó, là khao khát được gặp Isuzu. Mạnh mẽ hơn rất nhiều. Mạnh đến mức tôi nghĩ rằng có lẽ nó có thể vượt qua cả thời gian.
“Nếu chuyện đó xảy ra, anh Kazuki, em muốn anh ở bên chị ấy. Em nhất định sẽ không bỏ cuộc cho đến giây phút cuối cùng. Em nhất định sẽ quay về bên chị ấy. Thế nên, em muốn anh nhắn nhủ với chị ấy rằng hãy chờ em trở về.”
“Khoan đã, chuyện em của tương lai đang ở một dòng thời gian khác, suy cho cùng cũng chỉ là giả thuyết thôi mà…”
“Em biết. Nhưng khả năng đó không phải là con số không. Việc em của năm chín tuổi đã quay trở về năm 2011 vào ngày hôm đó của năm 2030, chứng tỏ rằng những điều kiện để vượt thời gian đã hội tụ đủ. Nếu vậy thì sau khi em quay về năm 2011, rất có thể em của một dòng thời gian khác sẽ quay trở lại năm 2030 để thế chỗ. Khả năng đó, một tương lai như thế, có thể sẽ tồn tại.”
Tương lai giống như phía bên kia của một đường hầm tăm tối, chúng ta không thể thấy điều gì đang chờ đợi trước mắt. Vì vậy, chúng ta thường sợ hãi và vẽ ra những kết cục bi thảm. Nhưng ở đó, chắc chắn cũng sẽ có những khả năng tỏa sáng rực rỡ.
Cũng như thị trấn Kuratsu đã bị phá hủy đến mức không còn chút hy vọng nào còn sót lại, nhưng rồi hai mươi năm sau, vào năm 2030, nó đã hồi sinh một cách mạnh mẽ. Để biến tương lai chất chứa cả hy vọng lẫn tuyệt vọng trở thành điều mà chúng ta mong muốn, thì nỗ lực chính là điều mà bất cứ ai cũng có thể làm được.
“Em không có thông minh, nên dù có vắt kiệt não cũng chỉ nghĩ được đến đó. Nên em xin anh, làm ơn hãy giúp em. Em chỉ có thể trông cậy vào anh thôi, làm ơn–”
Câu dứt lời của tôi bị chặn lại bởi một cú “bốp” cực mạnh trên trán. Choáng váng vì cú đánh, tôi phải bám vào cây đại dương cầm.
“Anh biết đâu không!!!”
“Đúng là đần hết chỗ nói.”
Cách nói thô kệch và cộc lốc của anh Kazuki không giống với hình tượng hoàng tử, nó có chút tương đồng với sự thô lỗ của anh Takatsu. Trong lúctôi đang xoa lấy xoa để cái trán và tự hỏi tại sao mình lại bị gọi là tên đần, anh Kazuki đưa ra một mẩu giấy.
“Suwa Isuzu, tỉnh Shizuoka, thành phố Hamamatsu, trường trung học nữ sinh Hamamatsu, lớp 10.”
Tôi nhìn chằm chằm vào tờ giấy, không thể thốt nên lời.
Khi tôi nhìn anh ấy, anh Kazuki khẽ lảng tránh ánh mắt, rồi buông một tiếng thở dài.
“Năm 2030, chị Isuzu có nói là bản thân hồi cấp ba đã tham gia một cuộc thi với mong muốn được cha mẹ công nhận, đúng chứ. Thi thố thì có nhiều lắm, các cuộc thi mới cũng liên tục được tổ chức nữa, nhưng các cuộc thi dành cho những người muốn đi con đường chuyên nghiệp thì khá là cố định. Hơn nữa, kết quả cuộc thi cũng thường được công bố trên web, tên người đoạt giải, tên trường, tên người hướng dẫn, địa chỉ các thứ cũng được đăng kèm theo. Khi anh tìm kiếm những cuộc thi có khả năng, tên của chị ấy đã xuất hiện trên trang web của một cuộc thi vừa kết thúc vòng chung kết mới đây. Hạng ba, phải nói là xuất sắc đấy. Cái tên ‘Isuzu’ cũng rất đặc trưng, nếu tính tuổi thì cũng khớp, nên anh nghĩ đó chắc chắn là chị ấy. Với thông tin trên tờ giấy đó, em có thể đi tìm gặp chị ấy.”
“… Anh Kazuki, nhưng mà tại sao?”
Trước câu hỏi khàn đặc của tôi, anh Kazuki không trả lời. Thay vào đó, anh ấy đẩy một phong bì màu nâu cỡ A4 ở trên piano về phía tôi.
“Đây là vé ưu đãi cổ đông của tàu shinkanzen mà anh Takatsu đã đưa cho. Mặc dù chỉ là vé một chiều, nhưng vẫn còn hạn sử dụng nên em cứ dùng đi. Từ Sendai đi Shinkanzen Tohoku để đến ga Tokyo, sau đó đổi sang Shinkanzen Tokaido là đến Hamamatsu. Có cả xe buýt đêm nữa, lúc về em đi bằng cái đó là được.”
Tôi nhìn tới lui mẩu giấy và phong bì trên cả hai tay, thật không thể tin được. Tôi cứ nghĩ rằng từ giờ sẽ mọi thứ sẽ gian nan lắm, tôi cứ nghĩ sẽ rất mất nhiều thời gian để tìm được Isuzu, người mà tôi còn chẳng biết đang ở đâu.
Nhưng giờ đây, nếu tôi muốn, tôi có thể đi gặp cô ấy ngay lắm tức.
“Hasekura, sao em mau nước mắt thế?”
“… Ơn nghĩa này, em sẽ dùng cả phần đời còn lại để đền đáp.”
“Thôi, nặng nề quá, phần đời còn lại gì chứ.”
Khi anh Kazuki bật cười một cách ngạc nhiên, tôi bỗng giật mình trước một dự cảm.
Năm 2030, Isuzu đã nhận được liên lạc từ một người không rõ danh tính. Người đó thậm chí đã đến tận nhà cô, Isuzu rất cảnh giác với người đó, tôi khi ấy đã chắc mẩm rằng đó là kẻ xấu.
Nhưng nếu người đó là anh Kazuki thì sao?
Nếu anh Kazuki làm theo lời thỉnh cầu của tôi, đến thị trấn Kuratsu nhiều năm sau đó để kiểm tra tình hình của chị Isuzu thì sao? Có khả năng anh Kazuki và Isuzu sẽ trở thành bạn âm nhạc với nhau trong tương lai, điều đó không phải là không thể xảy ra. Hơn nữa, anh Kazuki cũng biết rằng vào khoảng thời gian đó của năm 2030, tôi của năm chín tuổi sẽ xuất hiện tại thị trấn Kuratsu. Bởi vì chính tôi đã kể cho anh ấy nghe.
“Hasekura Souta.”
“Cố lên.”
Ngày hôm đó, người đàn ông mặc áo khoác sẫm màu đã gọi tôi khi tôi đang chạy đến mũi Thần Giáng. Nếu anh ấy đã giúp đỡ tôi vào thời điểm đó thì sao? Giống như những gì anh ấy đang làm với tôi ở thời điểm hiện tại?
“Sao thế? Đừng bận tâm đến chuyện của anh nữa, mau đi đi.”
Khi tôi vẫn đứng nhìn mà không nhúc nhích, anh Kazuki khẽ nhíu mày. Khi sực tỉnh, tôi đã muốn chạy đi ngay lập tức. Nhưng trước đó, có một điều mà tôi nhất định phải hỏi anh Kazuki.
“Anh Kazuki, anh có muốn đến mũi Thần Giáng ở thị trấn Kuratsu không?”
Đôi mắt anh Kazuki khẽ lay động.
“Những gì em nghĩ có thể không hoàn toàn đúng với quy tắc vượt thời gian mà ban nãy em đã nói. Nhưng em nghĩ là vẫn có khả năng, và nếu anh muốn, em sẽ dẫn anh đi.”
Nếu anh Kazuki muốn gặp lại người con gái đó một lần nữa, tôi sẽ làm mọi thứ mà bản thân có thể.
Nhưng anh Kazuki từ từ cụp mi xuống, khẽ lắc đầu.
“Cảm ơn em, nhưng không cần đâu.”
“… Anh chắc chứ?”
“Ừm. Anh nghĩ cô ấy sẽ nói rằng, thay vì dành thời gian cho những điều không chắc chắn như thế, thì hãy nhìn về phía trước và cố gắng làm những điều mà hiện tại bản thân có thể.”
“Chị ấy là người như vậy nhỉ.”
“Ừm, là người như vậy đấy.”
Khi anh Kazuki mỉm cười một cách ngượng ngùng và đầy tự hào, tuy nói vầy hơi kỳ, nhưng có lẽ tôi đã hiểu lý do tại sao người mà mình chưa từng gặp lại yêu anh Kazuki.
Khi nhận ra, tôi đã buột miệng nói.
“Anh Kazuki, quả nhiên chúng ta vẫn nên lập một nhóm tứ tấu piano.”
Anh Kazuki không chỉ đơ người, mà miệng còn há hốc như một đứa trẻ. Tôi tiếp tục nói nhanh.
“Hiện tại em với Kei và Chiharu đang bàn bạc, chúng em dự định sẽ đi biểu diễn tình nguyện ở các viện dưỡng lao. Anh có thể tham gia cùng chúng em không? Nếu không được thì em vẫn còn một ý tưởng khác, người ta có cái gọi là livestream biểu diễn không gian ảo nhỉ? Anh có thể thoải mái phát trực tiếp các buổi biểu diễn của mình, em thấy trên có nhiều người làm vậy lắm, nào là một cậu học sinh cấp hai muốn làm nghệ sĩ kể chuyện hài, rồi cả một ông chú chơi cực đỉnh nữa. Em thấy nó rất hay và cũng thường xuyên xem lắm, hay anh biểu diễn kiểu vậy đi? Sau đó là cùng với ba chúng em, chúng ta sẽ cùng nhau soạn lại ca khúc mà anh đã sáng tác, rồi cùng nhau biểu diễn. A, chắc là vẫn nên bàn bạc với anh Ozaki, anh ấy chắc chắn rất giỏi đảm nhận mấy vai trò như producer. Sau một thời gian, kiểu gì người ta cũng sẽ đặt cho anh mấy biệt danh như ‘chuyên gia trong vấn đề suy giảm dân số chơi piano quá đỉnh’…”
“Khoan, dừng, stop.”
Anh Kazuki hướng lòng bàn tay về phía tôi, nói với vẻ mặt lúng túng hiếm thấy.
“Anh đã nói rồi mà, anh không muốn…”
“Em biết. Em biết anh đang nghĩ về người cha của nạn nhân trong vụ tai nạn đó. Cho nên, nếu như ông ấy có thấy anh chơi piano ở đâu đó để rồi cảm thấy khó chịu hay khổ sở, đích thân em sẽ đi xin lỗi ông ấy. Em sẽ kể cho ông ấy nghe anh là người như thế nào, rằng anh quan tâm đến người khác ra sao. Em sẽ nói cho đến khi nào ông ấy hiểu thì thôi.”
Anh Kazuki lộ rõ vẻ bất lực, tôi nhìn thẳng vào mắt anh ấy.
“Vì vậy, anh Kazuki, hãy chơi piano đi. Sáng tác nhạc cũng được. Cái gì cũng được. Xin anh đừng từ bỏ bản thân mình như thế. Đừng từ bỏ thứ mà anh đã yêu thích và trân trọng bấy lâu nay.”
Dù không phải là piano cũng chẳng sao, chỉ cần anh ấy sống một cách trọn vẹn với con tim của mình.
“Em nghĩ chị Nanao đã để lại lá thư cho anh của tương lai cũng mong muốn điều trên, chị ấy yêu thương anh theo cách đó. Chị ấy mong muốn anh sẽ trở thành người hạnh phúc nhất thế gian và có thể mỉm cười cho đến giây phút cuối cùng.”
Tôi chưa từng gặp chị ấy, nhưng tôi có thể cảm nhận được. Những lời nói và ký ức xa xưa tựa như tia sáng nhỏ còn sót lại bên trong anh Kazuki, cho tôi biết rằng chị ấy chính là người như thế.
Tôi cúi đầu thật sâu trước anh Kazuki, nói rằng “Mong anh hãy xem xét”, rồi quay gót. Nhưng ngay lập tức, tôi nhớ ra điều quan trọng nhất mà mình chưa nói.
“Thực sự cảm ơn anh rất nhiều.”
Lần này, tôi cúi đầu sâu hơn, rồi mới rời khỏi phòng.
Tôi lao xuống từng bậc thang cũ kỹ, chạy một mạch và đẩy cánh cửa ở lối vào. Ánh sáng chói chang của mùa hè ùa tới như một cơn lũ, tôi vội lấy tay che mắt.
Qua kẽ tay, tôi nhìn thấy bầu trời trong xanh, những đám mây trắng muốt như lông vũ. Nó trải dài, trải dài đến vô tận, đến cả tương lai xa vời.
A.
Thế giới, thật rực rỡ làm sao.

