Vol 3: Triều Dâng Dưới Vầng Trăng Đen – Phần Thượng

Chương 12: Phân loài - Phần 4-5-6-7

2025-10-09

1

Phần 4:

Tháo mạch kích nổ thực ra không hề khó. 

Sở Nghiên cứu Ganryu vốn có hàng loạt phương pháp để gắn cơ chế chống tháo gỡ lên mạch, nhưng họ chưa bao giờ nghĩ rằng lại có người chui được vào cái không gian chật hẹp đầy đường ống như thế này. 

Cũng như việc tàu đổ bộ Mặt Trăng chẳng cần khóa cửa vì nếu có ai gõ cửa, chắc phi hành gia bị dọa chết khiếp mất rồi.

Sakatoku Mai khéo léo tách sợi dây vàng và dây xanh trong mạch kích nổ ra, bóc lớp vỏ cách điện bên ngoài và lớp phủ nano bên trong, rồi nối hai đầu dây trần ấy bằng một điện trở nhiệt. 

Thứ này thực chất là bộ hẹn giờ nhỏ nhất thế giới: 

Khi dòng điện chạy qua, điện trở sẽ từ từ bị nung chảy, hai sợi dây kim loại chạm vào nhau, mạch điện bị chập và cháy hỏng. 

Mà khi đó, điện trở đã tan biến hoàn toàn, dấu vết cũng chẳng còn.

“Điện trở nhiệt cần khoảng 5 phút để chảy. Trong lúc đó, sao không tranh thủ dạo một vòng dưới đáy biển sâu đi?” 

Giọng của cô nàng khoai tây vang lên.

“Được rồi, trò chuyện đến đây thôi. Còn cô, tiểu nô tỳ ngoan ngoãn ở nhà tắm rửa cho sạch sẽ, đợi bổn vương trở về.” 

Mai nửa đùa nửa thật đáp.

“Ừ, tôi sẽ tắm cho thơm phức luôn. Nhưng nhớ đấy, nhất định phải tiêm thuốc khóa gen! Hiệu quả bùng phát huyết thống chỉ kéo dài 4 tiếng thôi!” 

Giọng cô nàng khoai tây đột nhiên trở nên nghiêm túc khác thường. 

“Nếu không, cho dù tôi có tắm trắng đến đâu cũng chẳng ai đến ‘viếng thăm’ đâu.”

“Phì! Chị đây dù có thích phụ nữ cũng không đời nào thích loại mỡ thừa ở eo như cô đâu!” 

Mai tắt hẳn tai nghe.

Ở độ sâu này, sóng vô tuyến đã mất tác dụng. 

Cô chỉ còn trông cậy vào đường cáp thông tin. 

Thực ra, cô đang lén sử dụng dây cáp nối giữa tàu Trieste và Tu Di Tọa, song song với dây an toàn. 

Nhưng giờ, ngay cả phương tiện liên lạc duy nhất ấy cũng phải ngắt, vì cô sắp bước ra ngoài, đi bộ dưới đáy biển mà không mang bộ đồ lặn.

Cô mở van. 

Tiếng nước biển tràn vào ầm ầm như sấm dậy. 

Chưa đầy nửa phút, khoang ống đã ngập nước. 

Mai rướn người, lao ra từ khe thoát khí.

Ánh sáng từ GasRay chiếu xuống soi rõ thân hình cô, nhưng người trong khoang lái lại không thấy gì, cô đang ở đúng góc chết của mọi ống quan sát.

Dù không khoác áo choàng thêu vàng, bước chân cô trên đỉnh tàu lặn vẫn mang khí chất của một nữ vương đang tuần tra lãnh địa. 

Tim cô đập rất chậm, sức ép khủng khiếp như dãy núi đè lên toàn thân, khiến từng cử động nặng nề tựa như đang sống trên hành tinh có trọng lực gấp 10 lần Trái Đất. 

Nhưng dòng máu cường hóa trong cơ thể giúp cô chịu đựng được áp suất này. 

Một ngôn linh mới được giải phóng, lớp áo bó sát đen trên người cô ánh lên sắc vảy lân tinh, tạo nên một trường năng lượng vô hình, triệt tiêu bớt áp lực nước xung quanh.

Mái tóc dài, đen như tảo biển, lặng lẽ tung bay trong trường năng lượng, tựa như tảo biển trôi giữa bóng tối mịt mù nơi đáy đại dương.

Cô tháo xuống một mảnh giáp chống áp suất từ vỏ ngoài của tàu lặn, tìm thấy van khí ẩn bên dưới, rồi lấy từ balo ra một khối nhựa resin perfluorosulfonic bọc thạch anh, loại siêu axit rắn mạnh nhất mà nhân loại từng tạo ra, có tính axit gấp hàng triệu lần so với axit sulfuric. 

Mai ép khối resin ấy vào cổ van khí, rồi nhẹ nhàng đẩy người lên khỏi đỉnh tàu. 

Cơ thể cô trượt dọc theo cửa sổ quan sát, lướt xuống đáy, nơi đặt khoang chứa oxy.

Cô nối ống thép từ khoang oxy đến bình dưỡng khí của mình, dùng móc kim loại và dây an toàn cố định bản thân lên vỏ tàu, rồi nằm ngửa ra, nhìn quanh vùng biển đen đặc như mực. 

Chỉ còn lại luồng sáng từ GasRay quét qua quét lại, lặng lẽ mà cô độc.

“Càng xuống sâu, càng giống đang đi tới hoàng tuyền vậy…” 

Cô thì thầm trong lòng.

---

Trong đại sảnh trung ương, Schneider ngồi ngay ngắn ở trung tâm. 

Norma hiển thị các hình ảnh hologram quanh ông: 

Dữ liệu sonar, video quay từ Trieste, tình hình thời tiết ngoài khơi Nhật Bản… 

Mọi thông tin đều hội tụ trước mặt Schneider. 

Ông xử lý xong một màn hình thì khẽ phẩy tay, hình ảnh biến mất, rồi màn hình mới lại hiện ra, công việc nối tiếp công việc, không dừng giây nào.

Bề ngoài, người chỉ huy là Minamoto Chisei, nhưng thực chất anh chỉ là người phát ngôn của Schneider. 

Ông kiểm soát toàn bộ Tu Di Tọa, Maniakh, và Trieste.

Nhờ kết nối xuyên đại dương giữa hệ thống Norma và Kaguya-hime, Schneider gần như có mặt tại hiện trường. 

Thêm vào đó, thẻ đen do Manstein cung cấp cho phép ông toàn quyền sử dụng mọi tài nguyên của Norma.

Manstein, tất nhiên, chẳng có ý định “ra tay giúp đỡ”. 

Ông vốn là dân hành chính, chuyên mở họp, phát biểu và viết báo cáo. 

Giờ ông ngồi trong góc, chăm chú viết lách.

“Ông đang viết gì thế?” 

Schneider hỏi, không ngẩng đầu.

“Một bản báo cáo tự kiểm. Giải thích rằng tôi không phải không tuân lệnh Hội đồng Quản trị, mà chỉ đang hành động từ lập trường của Ủy ban Kỷ luật. Sau khi trao đổi kỹ với Bộ Chấp hành, tôi kết luận rằng việc dừng Chiến dịch Long Uyên lúc này là trái với quy định của học viện. Dù nghị quyết của Hội đồng có trọng lượng, nhưng nếu nó vi phạm quy trình pháp lý, thì Ủy ban Kỷ luật không thể thi hành.” 

Manstein đáp, mắt vẫn không rời trang giấy. 

“Tôi biết ông nghe chẳng hiểu đâu, mà cũng chẳng cần hiểu, đó là việc của dân hành chính bọn tôi.”

Schneider bật cười:

“Giờ thì tôi hiểu vì sao ông mới vào trường chưa đến 10 năm đã leo lên chức Chủ tịch Ủy ban Kỷ luật. Mọi anh hùng đều cần một người hát rong ca tụng chiến công của mình, còn người hát rong ấy, chính là giới hành chính các ông.”

Manstein nhấc bút, bình thản nói:

“Nếu mấy năm qua tôi không miệt mài viết báo cáo để lòe Hội đồng, thì với cái kiểu làm việc ‘muốn làm gì thì làm’ của ông và hiệu trưởng, mâu thuẫn với họ đã bùng nổ từ lâu rồi.”

Schneider im lặng một lúc, rồi khẽ nói:

“Có điều tôi vẫn không hiểu. Frost không phải kẻ ngu. Ông ta biết rõ ông đã làm gì suốt bao năm qua. Ông chẳng phải người của phe Hiệu trưởng, cũng chẳng phải chó săn nhà Gattuso. Thế thì tại sao nhà Gattuso lại giao mạng sống của người thừa kế cho ông, đồng thời đưa cho ông tấm thẻ đen đó? Với tính cách của Frost Gattuso, lẽ ra ông ta phải cử cả đoàn điều tra đến can thiệp mạnh tay như lần trước mới đúng chứ.”

“Không phải tôi đến đây theo sắp xếp của Frost,” Manstein ngẩng đầu lên, giọng bình thản, “người cử tôi đến là Pompeii Gattuso, gia chủ của nhà Gattuso.”

“Pompeii?” 

Schneider khẽ nhíu mày, có phần bất ngờ.

“Đúng vậy. Vì theo quy chế học viện, hội đồng quản trị không được phép can thiệp trực tiếp vào Bộ chấp hành. Chỉ có Bộ Chấp hành mới có quyền điều động sinh viên làm nhiệm vụ, và Caesar cũng không phản đối chuyện đó. Người duy nhất có thể ra lệnh dừng nhiệm vụ này chỉ có cha của Caesar, Pompeii, chứ không phải Frost, người đang tạm thời đại diện cho ông ta trong hội đồng. Lý do hội đồng quản trị nghi ngờ Bộ Chấp hành là: trong khi phụ huynh phản đối, họ vẫn cử sinh viên đi làm nhiệm vụ có độ rủi ro cao. Lúc Caesar bay đến Tokyo, nghe nói Pompeii vẫn đang ẩn tu trong dãy núi Tây Tạng. 

Frost muốn dừng chiến dịch Long Uyên, nên đã cho một đội kỵ mã đổ bộ xuống tận đèo núi tuyết, cưỡng ép đưa Pompeii ra khỏi ngôi miếu cổ nơi ông ta đang thiền định. Nói trắng ra, đó gần như là một vụ bắt cóc. Frost buộc Pompeii phải ra mặt yêu cầu dừng chiến dịch Long Uyên. Cũng vì thế mới xuất hiện chuyện tréo ngoe này, Pompeii vừa quyên tặng tàu Trieste để ủng hộ các ông, sau đó lại cử tôi đến yêu cầu dừng dự án ấy.”

“Pompeii đích thân chỉ định ông đến để dừng chiến dịch Long Uyên?” 

Schneider hỏi lại.

“Đúng. Nhưng nhìn vào cách làm thì tôi thấy ông ta chẳng hề muốn dừng nó, mà là mượn tay tôi để giao lại tấm thẻ đen này cho ông.” 

Manstein khẽ nhếch môi. 

“Đúng là một người cha kỳ lạ. Có vẻ như ông ta hoàn toàn không quan tâm đến sống chết của con mình.”

“Tôi luôn có một cảm giác…”

Schneider im lặng khá lâu rồi thấp giọng nói, “Pompeii biết điều gì đó. Ông ta biết thứ nằm ở tận cùng cực uyên ấy là gì. Và ông ta muốn chúng ta xuống đó, dù phải để chính con trai mình mạo hiểm.”

Manstein sững người: 

“Vì sao ông lại nghĩ thế?”

“Ngay sau khi Thái tử xuất hiện trở lại, thư ký của Pompeii có ghé qua học viện. Vì là người của hội đồng, mang theo ủy quyền của Pompeii, nên cậu ta có quyền tiếp cận hồ sơ tuyệt mật của Bộ Chấp hành. Với mọi việc khác, người thư ký ấy đều im lặng, chỉ riêng vụ chìm tàu Lenin là cậu ta lên tiếng. Cậu nói Pompeii sở hữu chiếc tàu lặn Trieste huyền thoại, và nếu học viện cần thì có thể gửi ngay qua. Lúc đó tôi chưa biết Bộ Trang bị không thể chế tạo được tàu lặn đủ tiêu chuẩn trong thời gian ngắn, nên định từ chối khéo lời đề nghị. Tôi chỉ nói nếu cần sẽ liên lạc sau. Không ngờ vài ngày sau, họ thật sự thuê trọn một chiếc tàu biển vận tải, chở cả tàu Trieste sang Chicago. Trước khi giao cho Bộ Trang bị, Bộ Chấp hành đã kiểm tra kỹ. Bên ngoài trông nó như một món đồ trưng bày trong bảo tàng dùng để làm cảnh ở các sự kiện từ thiện hay biểu diễn lớn nhưng kỳ thực, toàn bộ máy móc bên trong đều được bảo dưỡng cẩn thận, mới tinh như ngày chế tạo. Rõ ràng Pompeii từng nghĩ đến việc tái kích hoạt con tàu này, bởi chi phí bảo dưỡng của nó là con số không tưởng. Tôi gửi email cảm ơn, đồng thời nói có thể sẽ cho Caesar tham gia đội lặn. Tôi muốn thử phản ứng của ông ta, nếu Pompeii chỉ muốn cho mượn tàu để người khác đi mạo hiểm, ông ta sẽ từ chối ngay. Nhưng ngược lại, Pompeii nói rất vui khi nghe con trai mình được chọn lái chiếc tàu, và thậm chí còn yêu cầu sơn lên đó một lá quốc kỳ Nhật Bản.”

“Ý ông là Pompeii tin rằng chuyến lặn này an toàn?” 

Manstein nhíu mày hỏi.

“Không chỉ Pompeii mà cả chi nhánh Nhật Bản cũng kỳ lạ không kém. Bình thường, họ không trực thuộc học viện nên rất ít khi hợp tác với Bộ Chấp hành. Nhưng lần này, khi được nhờ hỗ trợ, họ lại tỏ ra vô cùng nhiệt tình. Toàn bộ sở nghiên cứu Ganryu đều tham gia, cấp lãnh đạo gần như ra mặt hết. Họ tỏ ra cực kỳ hứng thú với thứ nằm trong cực uyên, liên tục đòi chúng ta cung cấp thêm thông tin. Nhưng suốt quá trình ấy, họ lại nhất mực từ chối thừa nhận đó là phôi thai của một con rồng, nói rằng cần thêm nghiên cứu nhưng chẳng bao giờ đưa ra kết quả. Ban đầu chúng ta định điều thêm đội kỹ thuật từ Bộ Trang bị sang hỗ trợ, nhưng họ từ chối sang Nhật. Trong khi đó, chi nhánh Nhật vốn bảo phải “quan sát thêm” lại đột nhiên tuyên bố sẽ dốc toàn lực hỗ trợ chiến dịch Long Uyên. Chỉ trong 2 ngày, họ xin được lệnh đặc cách từ chính phủ, phong tỏa toàn bộ hải vực, rồi huy động 6 bệ nổi để dựng căn cứ trên mặt biển. Cái cách họ hành động khiến tôi có cảm giác… họ cũng biết điều gì đó.”

“Có vẻ ai cũng biết cả, trừ chúng ta, những người trực tiếp phụ trách chiến dịch này?” 

Manstein khẽ cười nhạt.

“Đúng là có cảm giác như vậy.” 

Schneider đáp, giọng trầm xuống.

“Để giảm rủi ro, tôi đã cho Caesar vào đội lặn chính, đồng thời yêu cầu cục trưởng cục chấp hành chi nhánh Nhật, một trong các thành viên cao cấp của Bát gia Jaki đích thân chỉ huy tại chỗ. Nếu có chuyện gì xảy ra, cậu ta sẽ phải chịu trách nhiệm đầu tiên.”

“Cho đến giờ mọi thứ vẫn ổn.” 

Manstein liếc lên màn hình lớn, nơi tỉ lệ nở của phôi rồng vẫn dừng ở mức an toàn 32%.

“Độ sâu đạt 2100m. Trieste vận hành bình thường.” 

Schneider vừa dứt lời thì—

Một hồi còi báo động chói tai vang lên, hàng loạt màn hình hologram hiện lên trước mắt họ, dữ liệu dày đặc cuộn lên không ngừng. 

Trên bản cắt dọc của Trieste, khoang khí số 1 nhấp nháy đỏ, sau đó lan sang khoang 2 và 3.

Sắc mặt Schneider chợt tái lại:

“Khoang khí… bị rò rỉ?”

Thứ ông lo sợ nhất, rồng chưa kịp xuất hiện, thì con tàu lặn được kiểm tra kỹ lưỡng ấy lại gặp sự cố cơ học đầu tiên.

Phần 5:

Tàu Trieste chấn động dữ dội. 

Mặt Caesar trắng bệch:

“Lỗi hệ thống! Lỗi hệ thống! Gọi Tu Di Tọa! Gọi Tu Di Tọa! Áp suất của khoang khí số 1 giảm mạnh, rò rỉ đang lan sang khoang 2 và 3, chúng tôi đang mất lực nổi! Lặp lại, chúng tôi đang mất lực nổi!”

Không có dấu hiệu báo trước nào. 

Tàu đột ngột chao mạnh, toàn bộ các đồng hồ chỉ số trên bảng điều khiển dao động loạn xạ. 

Trieste có tổng cộng 4 khoang khí, trong đó 3 khoang lần lượt bị rò rỉ, luồng khí nén phun ra như phát điên. 

Cảm giác mất trọng lực ập đến, kim đo độ sâu lao vun vút, con tàu đang rơi tự do xuống đáy biển.

“2.400… 2.680… 3.260…” 

Sở Tử Hàng báo số, giọng dồn dập. 

Trong chưa đầy 1 phút, họ đã rơi thêm cả nghìn mét.

Trieste vẫn dùng hệ đồng hồ cơ cổ điển, với bốn bánh số: 

Hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục và hàng đơn vị. 

Hai bánh số nhỏ quay nhanh đến nỗi Sở Tử Hàng gần như không kịp đọc.

“Giảm tốc! Bằng cách nào đó cũng được, phải giảm tốc ngay! Áp suất nước tăng quá nhanh sẽ làm vỡ lớp vỏ ngoài!” 

Minamoto Chisei hét lên qua bộ đàm.

“Không thể! Bọn em đang lao xuống như cục đá! Cục đá thì tự giảm tốc kiểu gì được chứ!” 

Giọng Lộ Minh Phi run rẩy, hoảng loạn.

Cậu cảm thấy linh hồn mình sắp bị hất văng khỏi cơ thể. 

Tàu vừa rơi, vừa xoay tít mù như tàu lượn siêu tốc, nhưng không có chuyến tàu lượn nào trên đời kéo dài đến thế. 

Cả thế giới này chẳng có trò chơi nào khiến người ta quay cuồng mấy phút liền mà chưa dừng, nếu còn lộn thêm chút nữa, họ sẽ “vào ga” thẳng dưới địa ngục.

“Thử cắt van khí! Giữ lại lượng không khí trong các khoang! Các cậu phải tìm cách tăng lực nổi!” 

Minamoto Chisei nói gấp.

“Đã thử rồi! Vấn đề chính là ở van khí, tôi mất quyền điều khiển nó rồi!” 

Caesar điên cuồng xoay núm điều khiển, vô ích.

Những luồng bọt khí khổng lồ phụt lên quanh thân tàu, tiếng rền vang như sấm nổ. 

Lộ Minh Phi nhìn ra ngoài cửa quan sát, toàn bộ tầm nhìn bị phủ kín bởi ánh bạc phản chiếu của vô vàn bọt khí.

Sở Tử Hàng mở bản thiết kế Trieste, nhanh chóng định vị: 

Vấn đề nằm ở van khí phía đỉnh thân tàu, van xả áp chung cho ba khoang khí số 1, 2, 3. 

Bình thường, nó luôn đóng kín, chỉ mở trong tình huống cực kỳ hi hữu. 

Van được giấu dưới lớp giáp chống áp dày cộp, ngay cả việc kiểm tra cũng rất phức tạp. 

Thật trớ trêu, chính cái van nhỏ bé, hiếm khi đụng tới ấy lại là nơi gặp sự cố, chứ không phải những van thông thường đã đóng mở hàng ngàn lần.

“Đây là lỗi thiết kế,” Sở Tử Hàng nghiêm giọng, “một khi van xả áp bị rò, dù có đóng hết các van khác thì cũng không ngăn được khí thoát ra. Giờ chỉ còn cách cố gắng làm chậm tốc độ rò rỉ.”

“Tôi có thể thử đổi hướng luồng khí qua ống ba ngả, cắt đường dẫn đến van xả áp. Nhưng cần thời gian!” 

Caesar nghiến răng.

“Khốn kiếp, đám kỹ sư của Bộ Trang bị chẳng phải nói đây là kiệt tác sao?!”

“Ta thử mở cánh ổn định xem, ít nhất phải dừng được độ xoay. Cứ lộn nhào thế này thì chúng ta chẳng làm được gì cả.” 

Sở Tử Hàng nói.

“Gọi Trieste! Gọi Trieste! Đây là sở Ganryu, chúng tôi có phương án khẩn cấp! Nếu các cậu kích hoạt nguồn động lực tăng cường của Trieste, kết hợp với cánh ổn định và cánh cân bằng, con tàu sẽ chuyển sang chế độ lướt nước! Tốc độ rơi sẽ được giảm đáng kể! Nhưng phải nhanh, nếu chậm thêm vài phút nữa, các cậu sẽ lao xuống đáy vực và tan xác trên đáy biển!” 

Giọng Minamoto Chisei dội qua tai nghe.

“Anh nói ‘nguồn động lực tăng cường’ là cái lò phản ứng hạt nhân mà Bộ Trang bị gắn thêm à?” 

Caesar túm lấy dây an toàn cố đứng dậy, dùng cùi chỏ đập vỡ nắp kính bảo vệ trên bảng điều khiển, rồi nắm chặt cần gạt màu vàng bên trong.

Lộ Minh Phi trố mắt nhìn ký hiệu phóng xạ trên đó:

“Cái… cái gì cơ? Đừng nói với em đây là năng lượng hạt nhân nhé?!”

“Bản gốc chỉ dùng pin axit clohydric, nhưng Bộ Trang bị thấy công suất yếu, không đủ để khảo sát diện rộng nên họ gắn thêm khoang năng lượng hạt nhân.” 

Caesar đáp, giọng dằn từng chữ. 

“Giờ Trieste có hai hệ năng lượng: nguồn yếu là pin lithium, còn nguồn mạnh chính là cái khoang hạt nhân này. Nhưng… cậu có tin nổi thứ do Bộ Trang bị lắp ra không?”

“Bọn họ… ờm… không giỏi về hạt nhân lắm… phải không ạ?” 

Lộ Minh Phi ấp úng.

“Cũng có mấy chuyên gia từng làm ở Los Alamos đấy, nơi chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của thế giới.”

“Thế thì còn gì phải sợ nữa?!”

“Vấn đề là họ giỏi chế bom nguyên tử, không phải lò phản ứng nhỏ! Nếu cái khoang hạt nhân này phát nổ, nó tương đương một quả bom vài chục triệu tấn. Hậu quả có thể gây ra động đất, sóng thần, thậm chí… làm Nhật Bản chìm xuống biển.”

“Độ sâu 6.400m!” 

Sở Tử Hàng dán mắt vào bảng đo, 

“Còn 2km nữa là chạm đáy vực! Đã dừng được độ xoay! Tàu đang lấy lại thăng bằng! Nếu có năng lượng, ta có thể chuyển sang chế độ lướt nước!”

“Lướt nước là cái quái gì?” 

Lộ Minh Phi hoang mang. 

Những thuật ngữ này nghe cứ như ngoại ngữ, mà lại đều gắn liền với sinh mạng của cậu.

“Bộ Trang bị đã gắn thêm cánh ổn định, giống như cánh máy bay. Khi kích hoạt năng lượng mạnh, tàu có thể lướt dưới nước ở tốc độ khoảng 12 hải lý/giờ, dùng lực nâng từ cánh để duy trì độ cao, nói nôm na là bay trong lòng biển.”

“Thôi thì… có còn hơn không. Dù sao rơi xuống hố sâu kia cũng chết chắc. Đánh liều một phen, tin vào cái lò hạt nhân chết tiệt của Bộ Trang bị đi!”

Caesar siết chặt chiếc cần gạt màu vàng, bàn tay khẽ run.

Chỉ cần gạt chiếc cần này xuống, sẽ có hai khả năng:

Một là con tàu Trieste khôi phục năng lượng, nhẹ như cánh chim lượn giữa lòng đại dương sâu thẳm;

Hai là hạt nhân phát nổ, cả 3 người họ tan xác, chưa kể sóng thần và động đất có thể ập đến Nhật Bản.

Nếu cần gạt nằm trong tay Lộ Minh Phi, cậu đã gạt từ lâu rồi. 

Dù sao cũng chỉ còn một con đường để đi, còn chuyện Nhật Bản chìm hay không, có can hệ gì đến cậu.

Cậu bồn chồn như có hàng trăm con mèo cào trong ngực, nhưng lại không tiện mở miệng khuyên Caesar làm điều tàn nhẫn ấy, chỉ biết trừng mắt nhìn anh chàng mà chẳng thốt nên lời.

Ánh mắt Caesar sắc như dao, môi mím chặt.

Hàng trăm triệu sinh mạng đang nằm trong tay anh.

Đến thời khắc sống chết, Caesar vẫn do dự, vẫn bị giằng co giữa lý trí và lương tâm, điều đó đủ cho thấy anh tôn trọng mạng người đến mức nào, không muốn kéo theo vô số dân thường vô tội vào thảm họa.

Lộ Minh Phi thoáng xấu hổ, hóa ra “quý tộc huyết thống xanh” là như vậy. 

Cách họ được giáo dục thật khác người.

Cậu nhớ lại một bài viết từng đọc trên mạng, nói về “ý nghĩa thật sự của hai chữ quý tộc.”

Thời Thế chiến thứ nhất, có một hầu tước trẻ người Anh giữ chức phó chỉ huy trên chiến hạm.

Tàu của anh bị pháo hạm Đức bắn trúng, thân vỏ rách nát, sắp chìm giữa khói lửa.

Vị hầu tước ấy liền giương cờ trắng, cầu cứu kẻ thù để xin cứu lấy thủy thủ của mình.

Thuyền trưởng phía Đức cũng là một quý tộc.

Dù hai nước vẫn đang giao chiến, ông vẫn ra lệnh hạ xuồng cứu sinh, thả ván nối sang, cứu những người Anh đang vùng vẫy giữa biển.

Khi tất cả thủy thủ đã được vớt lên, vị hầu tước trẻ gửi lời cảm ơn, nhưng không bước qua tấm ván nối ấy bởi anh chọn ở lại, cùng con tàu của mình chìm xuống đáy biển, như lời tổ huấn của gia tộc.

Lộ Minh Phi thở dài thán phục. 

Cái tầm của người ta, mình đuổi cả đời cũng chẳng kịp.

“Đại ca, nếu anh không nỡ xuống tay, để em làm việc xấu ấy cho!” 

Cậu bật thốt.

Caesar ngẩn ra:

“Liên quan gì đến nỡ hay không nỡ?”

“Chứ chẳng phải anh đang lo khoang hạt nhân nổ tung gây động đất sao?” 

Lộ Minh Phi sững sờ.

Caesar cau mày, gõ liên hồi lên bàn phím:

“Không… tôi quên mất mật khẩu khởi động rồi. Dù nhập thế nào cũng sai!”

Trong khi đó, Sakatoku Mai nằm úp người bên ngoài thân tàu, bị cố định chặt vào vỏ kim loại. 

Cảm giác thay đổi áp suất với cô rõ ràng hơn hẳn 3 người trong khoang.

Càng lặn sâu, áp suất nước càng tăng, cuối cùng lên theo cấp số nhân. 

Cơ thể cô bị ép đến mức lún hẳn vào lớp thép.

Dòng máu lai thức tỉnh mang lại cho cô năng lực ngôn linh hoàn toàn mới. 

Nếu không có nó, thân thể cô đã bị nghiền nát: 

Phổi nổ tung vì khí bị ép, máu tràn khỏi da thịt, xương cốt và cơ bắp hòa vào nhau, biến thành một khối nhầy vô định hình.

Trong lần lặn xuống rãnh Mariana trước đây, Trieste từng bị áp suất làm ngắn đi hẳn 5cm.

Trước mắt cô là bóng tối tuyệt đối. 

Cảm giác rơi mãi vào hố sâu không đáy khiến tim cô thắt lại. 

Nếu không có thuốc cường hóa dòng máu, chắc cô đã bật khóc vì sợ hãi.

Cảm giác ấy khiến cô nhớ lại buổi huấn luyện đầu tiên khi học làm ninja.

Khi đó, thầy dẫn cô đến bên vách núi, nói:

“Nhảy xuống đi. Nếu cô dám nhảy, ta sẽ dạy cô thứ cô muốn học.”

Không dây an toàn, không dù, phía dưới là màn sương mịt mù. 

Cô tưởng nghe nhầm, ngơ ngác nhìn thầy.

Thầy lặp lại, giọng bình thản:

“Nếu cô thật sự có khát vọng lớn đến mức sẵn sàng chết vì nó, thì hãy nhảy xuống. Còn không, cô không xứng học môn nghệ cổ xưa này.”

Cô nhảy thật. 

Không chút do dự.

Một tấm lưới an toàn ẩn trong sương đón lấy cô. 

Cô nằm yên trên đó, ngửa mặt nhìn lên trời, mỉm cười.

Thầy hỏi:

“Sao cô cười?”

“Con chẳng nghĩ gì cả,” cô đáp, “chỉ thấy nằm đây rất dễ chịu. Trên đầu và dưới chân con đều là mây trôi.”

Thầy im lặng hồi lâu, rồi nói:

“Hóa ra khát vọng của cô còn lớn hơn ta tưởng. Cô sẽ trở thành một ninja giỏi… nhưng e rằng một ngày nào đó, chính khát vọng ấy sẽ giết cô.”

Bởi khi người ta mang trong tim một ước vọng quá lớn, họ sẽ chẳng còn biết sợ là gì và ngay cả cái chết cũng không thể ngăn họ.

Đúng lúc ấy, ánh sáng lóe lên trước mắt cô.

Tiếng kim loại uốn cong vang lên chói tai từ buồng lái phía trên. 

Cảm giác mất trọng lực tan biến, nhường chỗ cho sức nặng khủng khiếp ép xuống.

Lộ Minh Phi bị đè chặt vào ghế, thở không nổi. 

Cảm giác rơi tự do và trọng lực cực lớn thay nhau ập đến, Trieste đang hãm tốc từng chút một.

Độ sâu dừng lại ở 7.900 mét.

Con tàu lắc lư, nghiêng nhẹ, rồi trôi lơ lửng giữa lòng biển đen ngòm. 

Dãy đèn tín hiệu nhấp nháy một chốc rồi vụt tắt, buồng lái chìm vào bóng tối đặc quánh.

Tai Lộ Minh Phi chỉ còn nghe tiếng “ù ù”, âm thanh của khí nén và dầu thủy lực gào thét trong đường ống.

Cả con tàu như một ông lão, những đường ống là mạch máu. 

Ông vừa chạy xong một cuộc marathon, huyết áp cao đến mức sắp vỡ mạch, nhưng cuối cùng vẫn sống sót.

Ba người ngồi phịch xuống ghế, mồ hôi ướt đẫm, trong lòng tràn ngập niềm vui của kẻ vừa thoát chết.

Họ chẳng biết chuyện gì vừa xảy ra, chỉ chắc rằng một cơ chế khẩn cấp nào đó đã cứu họ.

Caesar cầm đèn pin chiếu vào bảng điều khiển:

“Mạch điện và ống dẫn vẫn ổn. Khoang số 4 còn hoạt động. Đúng là nguyên mẫu có khác.”

“Nguyên mẫu của các anh suýt thì giết luôn bọn em đấy,” Lộ Minh Phi thở dốc.

“Mà sao chúng ta dừng được thế này?”

“Là móc an toàn phát huy tác dụng,” giọng Minamoto Chisei vang lên qua tai nghe,

“Tôi điều khiển từ xa kích hoạt nó, dùng móc an toàn giảm tốc từng đoạn, kéo các cậu lại. Thiết bị vẫn ổn chứ?”

“Mạch và ống dẫn không sao, nhưng bị mất điện rồi.” 

Caesar đáp.

“Đó là chế độ bảo vệ khi mất nguồn. Kiểm tra hệ thống đi, nếu không hỏng thì có thể khởi động thủ công.”

“Có trục trặc đấy, lượng oxy còn 59% thôi.” 

Caesar cau mày.

“Khỉ thật, khoang khí bị rò. Sao lượng oxy tụt nhanh thế này?”

“Đại cá, nhìn kìa, 2 cái đang nổi lên kia chẳng phải bình oxy của ta sao?” 

Lộ Minh Phi chỉ lên cửa sổ quan sát.

Dưới ánh đèn Gasray, 2 bình thép tròn màu xanh từ từ nổi lên, rồi dần bị ép bẹp lại.

Thép của bình dày đến vài centimet mà vẫn không chịu nổi áp lực nơi này. 

Oxy xì ra từ khe nứt, bình thép nổi thêm mấy chục mét rồi mất lực, rơi thẳng xuống đáy biển.

Lộ Minh Phi lúc ấy mới hiểu thế nào là áp suất cực hạn.

Nếu vỏ tàu nứt ra, họ sẽ chết ngay tức khắc, còn không cứng bằng hai cái bình kia.

“Đó là nửa số oxy còn lại của chúng ta,” Caesar khẽ nói, “chắc do rung chấn làm gãy bu lông cố định bình. Cùng lắm chúng ta chỉ còn 65 phút hoạt động.”

“Tôi sẽ gọi về Bộ Chấp hành xin chỉ thị,” Minamoto Chisei nói, “xem nên quay về sửa tàu hay thay đổi kế hoạch thăm dò. Xin chờ.”

“Tôi nghĩ giờ chưa thể quay lại được đâu,” giọng Caesar vang lên, nghe lạ lùng, “anh xem video tôi gửi về sẽ hiểu lý do.”

Phần 6:

Caesar đột nhiên cảm thấy có gì đó không ổn.

Tàu Trieste đang trong chế độ ngắt điện, khoang lái lẽ ra phải tối om, thế nhưng họ lại có thể nhìn rõ mặt nhau mà chẳng cần bật đèn pin.

Ánh sáng lọt vào từ cửa sổ tròn, là thứ ánh đỏ ấm áp, điều không thể có ở độ sâu 7.900 mét dưới đáy biển, nơi lẽ ra chỉ có bóng tối tuyệt đối.

Trước mắt họ là một quang cảnh tràn đầy sức sống. 

Nước biển mang sắc đỏ của hoàng hôn, vô số đàn cá kết thành từng khối khổng lồ bơi lượn trong thứ ánh sáng mờ ảo ấy. 

Có đàn tạo thành những vòng xoắn bay lên, có đàn lại xoay tròn như lốc xoáy rồi lặn sâu xuống đáy. 

Cá thì trắng sáng như bạc, có loài gần như trong suốt, lại có loài tỏa ra ánh lam dịu nhẹ. 

Thỉnh thoảng, những con cá đuối khổng lồ dang cánh thịt như đôi cánh chim lướt xuyên qua đàn cá, tách chúng ra rồi khép lại như chưa từng có gì xảy ra. 

Cạnh đó, những con rùa biển to lớn vụng về quạt đôi vây cứng như cánh, lững lờ bơi cùng đàn.

Phần lớn những sinh vật ấy họ chưa từng thấy bao giờ, dù có vài loài trông quen, nhưng vẫn khác biệt một cách kỳ lạ. 

Đầu của loài cá đuối kia được bao bọc bởi lớp xương ngoài đen trắng như hoa văn trên mũ sắt, khiến chúng giống hệt loài phi long trong truyện huyễn tưởng.

Còn lưng rùa lại chẳng phải mai cứng mà là thịt mềm, có màu đỏ như nham thạch nứt toác.

Cảnh tượng trước mắt vừa hùng vĩ, vừa rực rỡ đến choáng ngợp, một vẻ đẹp như trong mộng, vượt ngoài sức tưởng tượng. 

Người ta có cảm giác như đang ngắm bầu trời rực rỡ trước hoàng hôn, và đàn cá kia là những vì sao đang thong thả bơi giữa không trung.

Lộ Minh Phi ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy những tầng mây xám trắng trôi lững lờ phía trên tàu lặn.

“Cái này… có phải quá phi khoa học rồi không?” 

Cậu dụi mắt, cố xác nhận mình không phải đang mơ.

Bỗng nhiên, “tầng mây” kia chuyển động, vẫy chiếc đuôi dài khuấy tung nước biển, để lại một vòng xoáy trong suốt khổng lồ. 

Thân thể khổng lồ của nó va vào dòng nước, vang lên tiếng ầm ầm như sấm rền. 

Đó là một con cá voi dài hơn trăm mét, hoa văn xám trắng dưới bụng nó tựa như mây trời. 

Loài sinh vật ấy trong thế giới con người lẽ ra đã tuyệt chủng từ lâu.

“Nhìn hình dạng thì giống Basilosaurus, loài cá voi đã tuyệt diệt.”

Sở Tử Hàng khẽ nói.

“Không cần anh nói em cũng đoán ra rồi.” 

Lộ Minh Phi đáp.

“Chúng ta sắp tìm thấy phôi thai rồi đúng không?”

“Có lẽ vậy.” 

Sở Tử Hàng đáp, giọng bình tĩnh. 

“Ở độ sâu này lẽ ra chẳng thể có sinh vật khổng lồ tồn tại, nhưng ta lại thấy Basilosaurus… Chứng tỏ nơi đây có gì đó thay đổi hoàn toàn hệ sinh thái. Hãy nhìn xuống, chúng ta đang ở ngay trên Cực Uyên.”

Lộ Minh Phi áp sát cửa kính nhìn xuống, và cuối cùng hiểu vì sao nước biển lại có màu đỏ như hoàng hôn. 

Họ đang lơ lửng phía trên rãnh Nhật Bản, bên trái là vùng đáy biển thoai thoải, bên phải là những vách đá sắc nhọn dựng đứng. 

Bên trái thuộc mảng Á Âu, bên phải là mảng Thái Bình Dương.

Hai mảng va chạm tạo nên hẻm núi sâu nhất đại dương. 

Dưới đáy vực, một vết nứt vàng rực chạy dài từ bắc xuống nam, vết thương của Trái Đất, nơi lớp vỏ bị xé toạc, để lộ lớp phủ đỏ rực. 

Thỉnh thoảng, những luồng dung nham phun trào, hòa vào nước biển, tạo nên khung cảnh kỳ ảo như lửa và nước đang hòa làm một. 

Từ dưới sâu, vọng lên những tiếng sấm mơ hồ.

“Mẹ ơi! Từ ngữ của em không đủ dùng nữa rồi! Em tưởng dưới đáy cực uyên chỉ có bóng tối với mấy con quái vật dọa người cơ chứ!”

Lộ Minh Phi thốt lên, đầy kinh ngạc.

“Đó là vết thương của Trái Đất.” 

Sở Tử Hàng nói, ánh mắt nghiêm nghị.

“Lớp vỏ ở đây bị tách ra, lộ hẳn tầng phủ, kho chứa hàng ngàn tỷ tấn dung nham. Chính vì vết thương này mà Nhật Bản mới là quốc gia nhiều động đất nhất thế giới. Biết đâu một ngày, nó sẽ giống Atlantis, chìm hẳn xuống biển. Và… loài rồng lại chọn nơi như vậy để làm ổ trứng.”

“Vậy thì đúng là vận may trời ban rồi, khỏi cần tìm nữa, rớt thẳng vào lãnh địa của cổ long luôn.”

Caesar cười nhạt.

“Vận may cái đầu anh chứ!” 

Lộ Minh Phi phản pháo.

“Giống như đi săn mà phi xe thẳng vào hang sư tử, rồi hô to ‘May quá!’ còn con sư tử thì nghĩ, ‘Đúng là hên, bữa sáng tự dâng tới, lại còn có cả xe đi kèm.’”

“Nhưng… mấy sinh vật này kéo nhau đến đây làm gì? Để chờ bị rồng ăn à?”

“Tôi nghĩ ngược lại.” 

Caesar nói 

“Chúng đến để ăn. Ở đây có cảm giác như vùng biển gần Na Uy, nơi hải lưu lạnh mang theo vô số vi sinh vật, thức ăn của cả hệ sinh thái. Cá nhỏ tụ lại hoặc là để sinh sản, hoặc di cư, hoặc đơn giản là… có cái gì đó trong nước đang mời gọi chúng.”

“Ở nơi quỷ quái này thì lấy đâu ra vi sinh vật chứ?”

“Chúng ta có thể lấy mẫu nước mang về kiểm tra. Dù sao thì việc những đàn cá tụ tập ở độ sâu này chắc chắn có nguyên nhân. Cũng không loại trừ khả năng phôi rồng phát ra pheromone, thu hút cá tới làm nguồn dự trữ thức ăn.”

“Ý anh là con rồng sắp mở tiệc rồi chứ gì? Chúng ta đến đây chẳng khác nào shipper giao hàng tận miệng nó! Rồi còn phải cúi chào mà hỏi: ‘Ngài muốn dùng món nào trước ạ? Cá? Tàu lặn? Hay là… tôi?’”

“Nếu là cậu ‘dâng mình’ thật thì nó chắc chỉ biết nôn thôi, ăn gì nổi nữa.”

Caesar đáp lạnh lùng.

“Khoan đã… cá đâu cả rồi?” 

Sơr Tử Hàng đột nhiên nói.

Xung quanh bỗng trống rỗng lạ thường. 

Đàn cá vừa nãy còn dày đặc, giờ phút chốc đã tan biến. 

Ngoài khung kính, chỉ còn lại màu đỏ của hoàng hôn.

“Không hay rồi… có thứ gì đó đang tới.” 

Caesar nói, giọng trầm hẳn xuống.

“Th… thứ gì cơ?” 

Lộ Minh Phi run giọng, tóc gáy dựng đứng.

“Chưa biết, nhưng chắc chắn…” 

Caesar liếc nhìn ra ngoài, ánh mắt lạnh như thép, “…nó không nhỏ đâu.”

“Là nó phải không?” 

Sở Tử Hàng chỉ về phía cửa sổ quan sát bên phải.

Trong làn nước đỏ rực như ánh hoàng hôn, một bóng đen dài và thon lướt qua, chiếc đuôi khẽ quẫy, chuyển động chậm rãi mà dứt khoát. 

Dù chưa tăng tốc, ai cũng nhận ra nó có thể bất cứ lúc nào vọt đi với tốc độ khủng khiếp, như một quả ngư lôi sống. 

Đó là một con cá mập đầu búa khổng lồ, phần đầu dẹt như cái búa, hai con mắt mọc lệch hẳn sang hai bên, cách nhau gần 2m.

“Có lẽ là kẻ săn mồi hung dữ nhất vùng này,” Caesar nói khẽ. 

“Nó vừa xuất hiện, mọi sinh vật khác lập tức tản ra. Ở những vùng ngư trường, chỉ cần thấy đàn cá đổi hướng là biết ngay có thứ to lớn đang đến.”

Lộ Minh Phi thở phào, đập tay lên ngực:

“Giật cả mình! Tưởng là rồng chứ, hóa ra là cá mập.”

Cá mập đầu búa bất chợt gia tốc, chỉ mấy cú quẫy đuôi đã tới sát tàu lặn. 

Có vẻ nó rất tò mò về thứ kim loại kỳ lạ trước mắt, một con mắt khổng lồ của nó áp sát vào cửa sổ, lạnh lẽo như đang soi xét món ăn tối.

“Ơ kìa đừng lại gần! Tao cảnh cáo nhé, bọn tao toàn cholesterol, ăn vào hại sức khỏe đấy! Không hợp khẩu vị của mày đâu, đừng có mà ăn đồ rác!” 

Lộ Minh Phi hoảng loạn, nhưng vẫn không quên cãi bằng giọng run rẩy.

“Yên tâm,” Caesar nói, giọng điềm tĩnh. 

“Trong đại dương vốn chẳng có loài nào thật sự thích ăn thịt người đâu. Như cậu nói đấy. thành phần dinh dưỡng của con người chẳng hấp dẫn gì với cá mập cả. Thứ nó muốn là sinh vật to khỏe, nhiều cơ, như mực khổng lồ chẳng hạn. Thịt đó ăn chắc tươi và giòn như sashimi.”

“Mực khổng lồ là cái gì cơ?” 

Lộ Minh Phi tròn mắt.

“Là loài động vật không xương sống lớn nhất từng được ghi nhận,” Sở Tử Hàng đáp. 

“Con người từng bắt được cá thể dài tới 15m, tính cả xúc tu. Kẻ thù duy nhất của nó là cá nhà táng. Mỗi khi hai con gặp nhau ở tầng sâu, chúng lao vào trận sinh tử, ai kéo được ai lên tầng nông thì kẻ kia sẽ trở thành bữa ăn. Người ta từng tìm thấy trong bụng cá nhà táng những chiếc mỏ khổng lồ của mực, từ đó đoán rằng sâu dưới đáy biển có thể tồn tại những cá thể còn to lớn hơn nhiều, thậm chí dài tới vài chục mét.”

“Nó có nhiều xúc tu đúng không ạ? Trên đó có mấy cái giác hút ấy.”

“Đúng. Mười xúc tu, trên đó rải rác hàng trăm giác hút viền răng sừng, mỗi giác hút mạnh như một con trăn đang siết mồi. Có lần, người ta bắt được một con cá nhà táng mang đầy vết tròn đường kính gần 40 phân trên da, dấu tích của cuộc chiến nơi vực sâu, nơi một con mực khổng lồ có lẽ đã vươn xúc tu dài tới 60m để vật lộn cùng nó trong bóng tối.”

Caesar khẽ nhíu mày:

“Trong tình huống thế này mà 2 người vẫn còn hứng nói chuyện mực khổng lồ à?”

“Không, em chẳng hứng thú gì với sinh vật biển không ăn được. Nhưng mà… với mấy thứ có thể ăn em thì em phải quan tâm chứ!” 

Lộ Minh Phi run giọng, “Hai người nhìn sang cửa sổ bên kia xem, cái đó có phải con mực khổng lồ mà 2 người nói không?”

Cả Caesar lẫn Sở Tử Hàng đều cứng người, rồi cùng chậm rãi quay đầu lại.

Bên ngoài cửa sổ là một con mắt khổng lồ xanh biếc, tròn như viên băng, đang lặng lẽ nhìn vào. 

Trong làn nước u ám quanh đó, những xúc tu to như cột trụ đang uyển chuyển đung đưa, trên thân phủ đầy giác hút to bằng… nửa cái mâm.

“Là mực khổng lồ.” 

Caesar mấp máy môi, không phát ra tiếng.

“Chiều dài hơn 60 mét.”

Sở Tử Hàng cũng dùng khẩu hình.

“Không cần nói nhỏ thế, bên ngoài 2 con kia có nghe được tiếng người đâu.” 

Dù miệng nói vậy, Lộ Minh Phi vẫn hạ giọng theo bản năng.

“Mực khổng lồ không phát ra sóng âm như cá heo, nhưng da và tai trong của nó cảm nhận được từng rung động trong nước, nghe thấy nhịp đập của đại dương như nghe chính nhịp tim mình.” 

Caesar khẽ cúi xuống, tắt toàn bộ nguồn điện, đóng kín các van.

“Đây là chuẩn bị… tiết kiệm điện trước khi chết à?” 

Lộ Minh Phi cũng dùng khẩu hình, “Nó chẳng cần nghe đâu, có mắt mà! Nó đang nhìn chúng ta đấy!”

“Không phải đâu. Chúng không phải đang nhìn chúng ta, mà là đang nhìn nhau.” 

Caesar nói. 

“Chiếc tàu lặn này không phát nhiệt, không có mùi, trong mắt chúng chỉ là một vật thể lạ vô vị. Giờ việc của chúng ta là im lặng tuyệt đối, đừng cử động. Tàu được treo bằng cáp an toàn, nếu chúng ta làm nó lắc lư, chỉ cần chúng nghi ngờ và thử húc một cái, chúng ta đi đời ngay. Ở Siberia, thợ săn nói rằng nếu gặp gấu nâu, tuyệt đối đừng chạy, cũng đừng nổ súng. Không bắn chết nổi, chạy cũng không thoát, muốn sống thì chỉ còn cách nằm im như chết.”

“Nhưng chúng sẽ đấu nhau bao lâu? Em không chắc mình nín thở được tới lúc đó đâu.”

“Giữa các loài săn mồi, giai đoạn đối đầu là để thăm dò sức mạnh của đối phương. Nhanh thì vài phút, lâu thì… có khi cả ngày.” 

Caesar đáp.

“Tôi thì ổn,” Sở Tử Hàng khẽ nói. 

“Hồi cấp ba từng học tọa thiền. Thầy tôi bảo nếu đối mặt với ranh giới sinh tử, cao tăng có thể ngồi thiền từ 3 đến 5 năm, 1 ngày không nhúc nhích chẳng là gì.”

Caesar giữ thăng bằng hoàn hảo, đứng vững như tượng:

“Tôi từng tập Pilates, 3 tiếng không nhúc nhích cũng chịu được. Còn cậu thì sao, Lộ Minh Phi?”

“Em… em chẳng biết thiền, cũng chẳng tập Pilates, nhưng mà…” 

Lộ Minh Phi run run, rồi nằm bẹp xuống sàn buồng lái, “em ngủ thì y như chết rồi đó.”

Phần 7:

Thân tàu lặn chấn động dữ dội, sợi cáp an toàn căng ra phát ra tiếng nghiến ken két khiến người ta tê răng. 

Dòng nước cuộn xoáy va đập liên hồi vào lớp vỏ kim loại, cả vùng biển như bị 2 con quái vật khổng lồ khuấy đảo. 

Lộ Minh Phi vừa hé mắt một khe nhỏ, cảnh tượng bạo liệt mang vẻ đẹp nguyên thủy và đẫm máu đã ập vào tầm nhìn, như hàng vạn chiến mã xông trận giữa lòng biển đỏ rực hoàng hôn.

Tận sâu nơi biển lặng, 2 kẻ săn mồi khổng lồ quấn chặt lấy nhau, thân thể vặn xoắn dữ dội. 

Mười xúc tu khổng lồ của con mực khổng lồ siết chặt thân cá mập búa, còn hàm răng bén ngót của cá mập lại cắm sâu vào đầu mực. 

Máu đỏ tươi của cá mập hòa cùng thứ máu xanh biếc của mực khổng lồ, tạo thành những vệt loang đục trong làn nước. 

Những xúc tu đầy giác hút của con mực điên cuồng xé nát lớp da cá mập, trong khi cá mập cắn đứt một nửa đầu nó, kéo theo cả một con mắt và một xúc tu.

“Trông như cá mập sắp thắng rồi.” 

Lộ Minh Phi thở hổn hển.

“Chưa chắc đâu.” 

Caesar lắc đầu. 

“Vết thương trên đầu mực trông nặng thật, nhưng não nó nhỏ bằng quả bóng chày, cá mập chưa chạm được vào trung khu thần kinh. Còn con cá mập thì sắp ngạt thở rồi.”

“Bị siết cổ à? Nhưng cổ nó to thế, mực sao siết nổi?” 

Lộ Minh Phi nhíu mày.

“Không phải cổ. Nhìn kỹ đi, mực đã luồn hai xúc tu vào mang cá mập. Mang mà hỏng, cá mập chết chắc.”

Lời Caesar vừa dứt, hai xúc tu của mực khổng lồ rút phăng khỏi đầu cá mập, kéo theo hai vệt máu đỏ loang. 

Nó đã móc cả bộ mang ra ngoài. 

Con cá mập búa vừa rồi còn hung hăng là thế, giờ toàn thân run bần bật, sức sống nhanh chóng cạn kiệt. 

Nó giãy giụa thêm nửa phút rồi lật úp bụng, nổi lềnh bềnh trên mặt nước. 

Trong cơn hấp hối, mực khổng lồ vẫn chưa buông tha, những xúc tu tiếp tục cắm sâu vào lớp thịt, siết chặt thêm một lần nữa, tựa như để chắc rằng con mồi đã chết hẳn. 

Đến khi chắc chắn thắng lợi, nó mới buông ra, lượn một vòng quanh xác con cá mập, phun ra một luồng khói đen rồi tan vào bóng nước xa xăm.

Lộ Minh Phi thở phào, tim như vừa được đặt lại vào lồng ngực. 

Dù chiếc Trieste bằng hợp kim nặng hơn nhiều, nhưng chỉ cần bị những sinh vật khổng lồ ấy húc thủng một vết nứt thôi, toàn bộ tàu lặn sẽ sụp đổ ngay tức khắc.

Caesar bật bộ đàm:

“Gọi về trụ sở. Chúng tôi đã đến gần vị trí của phôi thai. Dù lượng oxy còn ít, chúng tôi vẫn có khoảng 50 phút hoạt động dưới đáy. Môi trường sinh học xung quanh cực kỳ dị thường, nhưng các thiết bị khác vẫn ổn định. Đây là cơ hội hiếm có, xin phép tiếp tục khảo sát. Lặp lại, xin phép tiếp tục khảo sát.”

Một khoảng lặng ngắn trôi qua. 

Rồi giọng Schneider vang lên qua tai nghe:

“Các cậu đã có phát hiện phi thường. Cho phép tiếp tục khảo sát, nhưng hãy giám sát chặt thiết bị, an toàn là ưu tiên hàng đầu.”

“Người nhà em gây áp lực với Bộ Chấp hành rồi à?” 

Caesar cười nhạt.

“Nghe nói ông chú của cậu đang trên đường tới đây với một khẩu súng hai nòng, một viên để bắn vào đầu tôi, một viên cho giáo sư Manstein.”

“Đừng lo, em sẽ không cho ông ta cơ hội đó đâu. Em sẽ không làm theo lời ông ấy, nhưng em vẫn sẽ kế thừa nhà Gattuso.” 

Caesar cắt liên lạc.

Bỗng Lộ Minh Phi hét toáng:

“Nhìn kìa! Trời ơi, đẹp quá!”

Caesar và Sở Tử Hàng cúi xuống nhìn. 

Thoạt đầu, họ tưởng là đàn đom đóm đang từ đáy cực uyên bay lên, hàng nghìn ánh sáng xanh biếc lấp lánh xoay quanh xác cá mập, tựa như một vũ điệu giữa sao trời. 

Cảnh tượng ấy hệt như khúc nhạc của Hisaishi Joe rong đêm tĩnh mịch, nơi những đốm sáng nhỏ bé vờn quanh thi thể người chiến binh đã ngã xuống. 

Nhưng khi tàu lặn tiến lại gần, họ mới nhận ra đó là những con cá nhỏ, thân dài thon, vảy bạc ánh xanh, trên đầu mọc một sợi râu phát sáng mảnh như tơ.

“Đó là loài gì vậy?” 

Lộ Minh Phi hỏi.

Sở Tử Hàng trầm giọng, sắc mặt trở nên nghiêm trọng:

“Cá thuộc họ Stomiiformes… cá rắn viper.”

Chỉ nghe tên thôi, Lộ Minh Phi đã thấy rùng mình. 

Ngay lúc ấy, một con cá rắn nhỏ trườn qua ngay trước cửa kính, nó dài ngoằng, gần như không có vây, miệng nứt toác, hàm răng trong suốt tua tủa như lưỡi dao, trông chẳng khác gì rắn hổ mang sẵn sàng phun nọc.

“Cái quái gì thế này!” 

Lộ Minh Phi bật lùi lại, dù biết ngoài kia là lớp kính dày mấy tấc, cậu vẫn rợn da gà, cứ như con cá đó có thể lao thẳng vào.

Rồi bỗng cả đàn cá rắn cùng lao về phía xác cá mập, tựa như tiếng chuông khai tiệc vang lên. 

Chúng cắm những hàm răng như dao găm vào da thịt cá mập, nghiến mạnh bằng cơ hàm khủng khiếp. 

Con cá mập búa co giật, thân thể uốn cong dữ dội, nhưng vô ích, bầy cá rắn đã trườn vào khoang bụng nó, ngoạm xuyên qua lồng ngực, ruột gan, cơ thịt. 

Trong mắt Lộ Minh Phi, con quái vật từng thống trị đại dương ấy dần trở thành một bộ xương trắng toát, lộ cả khung sụn.

Chỉ vài phút sau, bộ xương đó lặng lẽ chìm xuống đáy, còn đàn cá rắn tản ra, uyển chuyển và yên tĩnh đến kỳ lạ. 

Từ xa nhìn lại, chúng như một dải Ngân Hà lấp lánh, đến rồi đi đều đẹp đến rợn người, chỉ khi săn mồi mới bộc lộ bản chất man rợ như những dã thú trên cạn.

Ba người đều hiểu ra: 

Con mực khổng lồ không phải rời đi thong thả, mà là bỏ chạy vì sợ hãi. 

Mùi máu của trận chiến đã thu hút cá rắn, những kẻ thực sự thống trị vùng cực uyên này. 

Chúng không săn đuổi, mà hành hình con mồi từng tấc một, như tra tấn. 

Không lạ gì khi cá mập và mực đánh nhau đến điên cuồng như vậy, chúng biết, nếu dây dưa quá lâu, sẽ trở thành món ăn của đàn cá rắn.

“Còn dữ hơn cả cá piranha vùng Amazon!” 

Lộ Minh Phi liên tục lau mồ hôi. 

“May mà bọn mình ở trong cái lớp vỏ sắt này!”

“Không đâu.” 

Sở Tử Hàng nói, ánh mắt sắc lạnh. 

“Chúng cắn thủng được cả thép. Vì… đó không phải là loài cá rắn bình thường.”

Caesar và Sở Tử Hàng nhìn nhau, ánh mắt giao nhau trong sự nặng nề.

“Tôi tưởng chúng đã tuyệt chủng rồi.” 

Caesar khẽ nói.

“Ghi chép cuối cùng về Cá Rắn Răng Quỷ hình như nằm trong những tấm bảng đất sét của nền văn minh Sumer thì phải?” 

Sở Tử Hàng nói.

“Ừ. Người Sumer từng dùng chúng để tinh luyện quặng sắt.” 

Caesar đáp. 

“Luyện kim sinh học, có trước luyện kim bằng nhiệt độ cao cả nghìn năm.”

“Vậy ra… cá mập và mực khổng lồ cũng là phân loài của chúng à?”

“Chắc vậy. Thảo nào chúng thích nghi được với môi trường cực đoan ở đây.”

“Khoan khoan, hai anh đang nói cái gì thế? Em chẳng hiểu chữ nào hết!” 

Lộ Minh Phi sốt ruột nói.

Sở Tử Hàng quay đầu lại nhìn cậu. 

Người được mệnh danh “kẻ giết chóc” vốn hiếm khi để lộ cảm xúc, thế mà lúc này, đồng tử anh giãn to, sắc mặt trắng bệch, như vừa trông thấy ma.

“Những sinh vật đó gọi là ‘Cá Rắn Răng Quỷ’, quái vật trong truyền thuyết. Loài rồng từng dùng chúng làm hình cụ. Quý tộc nào phạm tội liên quan đến lửa sẽ bị trói vào cột đồng, thả xuống biển sâu cho bầy cá rắn ăn thịt, nuốt luôn cả người lẫn cột.”

Anh dừng lại một chút rồi nói tiếp:

“Vì toàn bộ lịch sử về Long tộc đều được suy đoán từ cổ thư, nên người ta vẫn cho rằng Cá Rắn Răng Quỷ chỉ là hư cấu. Nhưng lịch sử luyện kim lại ngầm chỉ ra rằng chúng thực sự từng tồn tại. Phần lớn học giả cho rằng người Hittite đã phát minh ra kỹ thuật luyện sắt khoảng năm 1500 TCN, nhưng học viện chúng ta từng mua được những món đồ sắt có niên đại còn cổ hơn, do chính người Sumer chế tạo. Ở thời đó, nhân loại chưa thể tạo ra ngọn lửa đủ nóng để nấu chảy quặng sắt. Kết quả tái dựng kỹ thuật cho thấy, người Sumer đã dùng ‘luyện kim sinh học’: họ nuôi dưỡng Cá Rắn Răng Quỷ, cho chúng ăn quặng sắt. Lượng sắt trong cơ thể chúng dần tích tụ và tinh khiết hóa, sau đó người Sumer chỉ cần đốt xác chúng ở nhiệt độ thấp là thu được thứ sắt có chất lượng cực cao. Trong loại sắt ấy còn tìm thấy tinh thể trong suốt, đó chính là răng của cá rắn.”

Lộ Minh Phi trợn mắt: 

“Vãi nồi, nuốt cả quặng sắt à? Thứ quái gì vậy trời!”

“Bởi vì chúng mang trong mình gen của Long tộc.” 

Caesar nói. 

“Ở đây, tất cả sinh vật đều mang gen rồng. Nhìn kia, con mực khổng lồ quay lại rồi.”

Con mực khổng lồ lặng lẽ lơ lửng bên khung xương trắng của cá mập đầu búa, 9 chiếc xúc tu khổng lồ phập phồng, những giác hút ánh lên từng chớp sáng u ám, miệng nó liên tục hút vào từng ngụm nước đỏ ngầu.

“Bầy Cá Rắn Răng Quỷ đã xé nát cá mập, phần mô thịt lẫn trong nước biển. Con mực chỉ cần lọc nước là có thể ăn được những mảnh vụn đó.” 

Sở Tử Hàng nói. 

“Nhìn kỹ xúc tu của nó đi.”

Sau khi con mực lọc qua, nước biển dần trong trở lại. 

Lộ Minh Phi cuối cùng cũng thấy rõ, những xúc tu to hơn nửa mét kia phủ đầy vảy, trông như 9 con rắn khổng lồ đang quằn quại trong nước. 

Thế gian vốn không nên tồn tại một con mực có vảy như thế.

Sau khi ăn nốt tàn dư, mực khổng lồ uyển chuyển vung xúc tu, rồi thong thả bơi đi. 

Cá và rùa lại quay về vùng biển này, khung cảnh dần khôi phục vẻ yên bình, rùa biển cõng hải quỳ lững lờ trôi, cá đuối uốn mình như cánh chim bay lượn giữa làn nước. 

Nhưng trong mắt Lộ Minh Phi, vẻ đẹp êm đềm ấy đã biến dạng, ẩn dưới lớp yên tĩnh là luật sinh tồn đẫm máu, nơi kẻ yếu chỉ có thể vui đùa khi còn sống sót, còn kẻ mạnh rình rập chờ bữa ăn kế tiếp. 

Toàn bộ vùng biển này vận hành dưới quy tắc tàn bạo của huyết thống rồng, và mọi sinh vật ở đây kể cả họ đều mang trong mình nửa dòng máu rồng.

“Phôi thai đó hẳn đang nằm trong cực uyên bên dưới, một cổ long cực kỳ mạnh mẽ.” 

Sở Tử Hàng nói. 

“Trong quá trình ấp nở, nó không ngừng tiết ra dịch thể chứa đựng thông tin gen. Chính thứ dịch ấy thu hút sinh vật biển kéo đến, rồi viết lại gen của chúng, biến tất cả thành phân loài của Long tộc. Chúng ta đã bước vào lãnh địa của cổ long rồi.”

“Lạ thật.” 

Caesar nhíu mày. 

“Theo những gì ta biết, loài rồng thường chọn nơi cách xa con người và sinh vật để ấp phôi. Chúng không cần bầy cá làm thức ăn, cũng không bao giờ dễ dàng tiết ra dịch thể mang thông tin gen. Trong lịch sử, chỉ từng có trường hợp con người tiếp xúc trực tiếp với máu cổ long mà tiến hóa, chứ chưa từng có việc phôi thai tiết dịch khiến hàng loạt sinh vật biến dị thành long chủng. Thật khó hiểu.”

“Đối với điều không hiểu được, cách tốt nhất là đích thân xuống xem.” 

Sở Tử Hàng đáp.

---

“Bọn họ chắc đã tiến gần đến Shinsojo rồi, hình ảnh truyền về cũng sắp tới.”

Minamoto Chisei nói.

“Ta xem rồi.” 

Tachibana Masamune thở dài, giọng khẽ run: 

“Đúng là một kỳ tích của thế gian… vượt xa mọi tưởng tượng của ta. Trước đây, ta chỉ biết về Shinsojo qua cổ thư, nơi chôn vùi thần trông như thế nào, ta cũng không ngờ. Rõ ràng có một thứ gì đó đang nuôi dưỡng cả vùng biển ấy, không phải phôi thai, mà là xác của thần. Thành công đã ở ngay trước mắt. Hãy xóa sổ Shinsojo khỏi thế giới này. Bát gia Jaki không cần giữ lại di thể của thần. Không, đó không phải thần, mà là ác ma!”

“Cha à… dạo này con cứ nghĩ mãi một chuyện.” 

Minamoto Chisei trầm ngâm vài giây. 

“Chúng ta muốn có một cuộc sống yên bình, nên mới đi tìm sức mạnh tuyệt đối… phải không?”

“Cậu nghi ngờ à?” 

Tachibana Masamune hỏi lại.

“Không hẳn là nghi ngờ… chỉ là chưa thể xác định.” 

Chisei khẽ nói. 

“Phá hủy Shinsojo, tiêu diệt Moukishu, chuyện này sẽ đổ bao nhiêu máu, con không chắc có đáng không. Có lẽ chúng ta định dùng bạo lực để đổi lấy hòa bình… nhưng khi đã nắm trong tay bạo lực lớn nhất, có lẽ chính chúng ta sẽ trở thành kẻ cần bị diệt trừ.”

“Ta chắc chắn.” 

Tachibana Masamune đáp chậm rãi. 

“Nếu ta sai, ta sẽ một mình gánh chịu. Cậu đừng nghĩ nhiều. Dù đó là tội lỗi, cũng là tội của ta. Cậu vẫn là đứa trẻ nhân hậu mà ta biết, chỉ là cậu không muốn ta cô độc thôi. Người đứng đầu Bát gia Jaki sao có thể cô độc được? Có biết bao kẻ vây quanh ta, coi việc bị ta quở trách là một niềm vinh dự. Người võ sĩ không vì bầy chó săn quanh ngựa mà hết cô độc. Thứ có thể xua tan cô độc của võ sĩ, chỉ có một võ sĩ khác.”

“Ngài nói vậy, nhưng con cũng chỉ là một con chó săn của ngài thôi… một con chó săn chỉ muốn rời xa ngài, chạy về nơi xa xăm.”

Minamoto Chisei cúp máy, lặng lẽ đeo lại tai nghe.