Phần 4:
“Tôi cảm nhận rất rõ ràng, nó ở ngay trước mặt mình. Tôi và con rồng bị thương ấy đứng đối diện trong màn đen đặc, gần đến mức chỉ cần đưa tay ra là chạm tới, nhưng tôi lại chẳng thể nhìn thấy gì. Nó phả ra một luồng khí. Chỉ trong chớp mắt, mặt nạ dưỡng khí của tôi vỡ tan, luồng hàn khí lẫn với máu rồng tràn vào khí quản, như thể xuyên thẳng vào tận linh hồn. Ý thức của tôi vụt tắt. Trên mặt băng, đồng đội phát hiện tôi không còn đáp lại tín hiệu, liền kích hoạt hệ thống kéo khẩn cấp, giật tôi ngược lên mặt nước. Lúc nổi lên, thân thể tôi đã bị đóng cứng trong một khối băng nặng mấy tấn, chẳng khác nào con cá đông lạnh bày trong siêu thị. May mắn là trực thăng cứu hộ kịp đến chỉ sau vài phút. Tôi tỉnh lại trong tình trạng bác sĩ nói là đã chạm đến cực hạn của giá lạnh. Tôi như vừa nhảy một điệu vũ sinh tử với Tử Thần, hít vào luồng khí âm hàn từ miệng nó, -200 độ, lạnh đến gần như ngưng tụ thành chất lỏng. Chỉ trong khoảnh khắc, nửa khuôn mặt tôi đã hoại tử, nhiệt độ não bộ rơi xuống âm độ, máu trong mạch cũng đông lại. Khả năng sống sót chưa đến 0.1%. Dù bác sĩ đã dốc hết sức, thứ họ cứu vớt được chỉ còn lại… cái lưỡi của tôi. Trong ca phẫu thuật, khí quản của tôi giòn như xác ướp, chạm nhẹ cũng vỡ vụn. Từ đó tôi buộc phải mang mặt nạ dưỡng khí suốt đời, 2-3 năm một lần thay ống thở nhựa, nếu không sẽ chết vì suy hô hấp. Tôi vốn nghiện thuốc lá cuốn tay. Nhưng hộp thuốc lá vụn này đã giữ suốt 11 năm mà vẫn chưa hút hết. Tôi chỉ châm một điếu vào những lúc nhớ lại chuyện cũ. Khói thuốc xuyên qua ống thở, cái đau bỏng rát khiến ký ức khắc sâu thêm, như vết sẹo chẳng thể phai. Tôi thề với ông, từng chi tiết tôi nói ra đều là thật, vì tôi không dám quên. Nỗi đau ấy đã khắc thẳng vào trí nhớ của tôi. Chúng tôi đã không thể bắt hay giết con rồng đó. Nó vẫn còn sống, lẩn trốn nơi sâu thẳm đại dương, chỉ chờ cơ hội trồi lên mặt nước. Vài giờ sau, chúng tôi điều khiển robot thám hiểm xuống lại hiện trường. Cả vùng biển băng giá tĩnh lặng như chết, ngay cả bóng cá cũng biến mất, chẳng để lại dấu vết nào. Lục soát cả đáy biển cũng chẳng tìm ra phôi thai hay cột đồng, như thể tất cả chỉ là một cơn ác mộng, tỉnh dậy thì tan biến sạch. Vài năm sau, một công ty khai thác biển phát hiện nơi đó có trữ lượng mangan khổng lồ và đã dựng lên giàn khoan. Giờ ở đó có cả ngàn công nhân mỏ ngày đêm làm việc, và từ ấy không còn hiện tượng siêu nhiên nào xảy ra. Cho đến gần đây, chúng tôi lại bắt được tín hiệu nhịp tim y hệt, ở tận đáy rãnh Nhật Bản. Câu chuyện đến đây là hết. Nhưng tôi còn một thứ muốn đưa cho ông.”
Schneider kéo từ dưới bàn ra một tập hồ sơ dày phủ bụi, đẩy sang trước mặt Manstein.
“Tôi đoán được hội đồng quản trị sẽ sớm cử người tới chặn chiến dịch Long Uyên, nên đã lén mang tập này từ phòng lưu trữ. Không ngờ trong lúc vội vã, họ lại đẩy ông đến đây. Đọc đi. Đừng để ý đến dấu niêm đỏ ‘SS’ trên bìa. Đợi ông đọc xong, tôi sẽ làm giả con dấu rồi đóng lại.”
“Ông làm cách nào lấy được cái này?”
Mặt Manstein biến sắc.
“Dù là trưởng Bộ Chấp hành, ông cũng sẽ bị hội đồng bãi nhiệm vì chuyện này!”
Tài liệu hạng “SS” vốn chỉ có hội đồng quản trị mới được tiếp cận.
Tất cả đều là văn bản giấy, không có bản sao trong Norma.
Chúng được cất giữ trong thư khố tuyệt mật tại Valhalla, chìa khóa nắm trong tay hiệu trưởng và các ủy viên hội đồng.
Bộ Trang bị điên rồ kia chỉ được phép canh giữ chứ không được đọc.
Ngay cả thành viên hội đồng cũng khó mà vào đó, bởi Valhalla gần như đóng kín, có khi ngay cả họ cũng bị từ chối ngoài cửa.
“Tôi dĩ nhiên không tự lấy được. Đám ở Trang bị vốn chẳng ưa tôi.”
Schneider nói, “nhưng có kẻ có thể lấy. Nếu người đó chẳng buồn để tâm đến chuyện bị bãi nhiệm, thì tại sao tôi phải bận lòng?”
Ẩn ý quá rõ ràng.
Anjou chưa từng sợ bị luận tội.
Hội đồng quản trị đã nhiều lần muốn phế truất ông ta, nhưng vấn đề là không ai thay thế nổi.
Bìa hồ sơ ghi “Kalaallit Nunaat”, trong tiếng Greenland nghĩa là “Đảo Greenland”.
Vụ Greenland 11 năm trước từng làm rung chuyển tận thượng tầng học viện, nhưng những người biết rõ chân tướng đều câm lặng.
Manstein gia nhập Cassell chỉ sau biến cố ấy.
Giờ, chỉ cần mở tập tài liệu này, bức màn bí ẩn năm xưa sẽ được vén lên, sức hấp dẫn ấy đủ khiến ông khó cưỡng.
“Đây có thể là cơ hội duy nhất để ông biết sự thật. Nếu giờ dừng lại, vẫn còn kịp.”
Giọng Schneider lẫn chút mỉa mai.
“Nhưng đọc xong, ông sẽ chẳng còn đường làm kẻ gió chiều nào theo chiều ấy nữa. Nhà Gattuso mà biết ông đã xem tập này, họ sẽ coi ông như một con chó trung thành khác của hiệu trưởng, giống hệt tôi.”
Manstein thở dài, dùng ngón tay bật con dấu niêm.
Ông lật từng trang, chữ ký của những kẻ trong cuộc hiển hiện trước mắt.
Càng đọc, mặt ông càng tái, khóe mắt giật liên hồi, bàn tay cũng run rẩy.
“Đám khốn đó… đã làm những chuyện gì thế này!”
Ông gầm khẽ.
“Đúng vậy. Đó là lý do hội đồng không dám chạm lại vụ Greenland.”
Schneider nói.
“Ông thấy rồi đấ, họ rõ ràng biết việc tiếp cận phôi thai cổ long nguy hiểm ra sao. Bí đảng sớm đã hiểu, ngay từ giai đoạn phôi, rồng đã mang tính công kích. Nhiều huyết thống bạo liệt còn có thể tự xé toạc cơ thể mẹ để ra đời, huống chi là cổ long thực sự. Nhưng hội đồng khao khát có được phôi thai ấy, chẳng ngại lấy mạng người ra mạo hiểm. Kết quả là tai nạn tất yếu xảy ra. Họ vội vàng che đậy chân tướng, thay máu gần hết bộ máy quản lý, đẩy những kẻ liên quan tản ra khắp các chi nhánh toàn cầu. Họ còn buộc phải nhượng quyền cho hiệu trưởng, từ đó quyền lực mới nghiêng hẳn về phía ông ta như bây giờ. Hội đồng không đủ tư cách gửi công văn bắt tôi dừng chiến dịch Long Uyên. Việc tôi đang làm hôm nay chẳng khác gì những gì họ từng làm 11 năm trước. Chỉ vì trong đội lặn lần này có cả người thừa kế nhà Gattuso, nên họ mới hoảng loạn. Người khác thì có thể chết, nhưng mạng của chính họ thì phải bảo toàn. Ngay cả lũ điên Trang bị cũng chẳng hèn hạ bằng họ.”
Schneider nói.
“Phôi thai 11 năm trước đã bất ngờ nở… còn lần này thì sao?”
“Dĩ nhiên là có khả năng. Chúng ta hiểu biết quá ít về quá trình nở của loài rồng, làm sao biết nó sẽ nở khi nào?”
“Ngay cả nhóm Caesar cũng không biết ư?”
“Không cần thiết. Biết rồi chỉ thêm sợ hãi vô ích. Chúng ta chỉ mượn sức mạnh từ huyết thống của họ, chỉ những kẻ huyết thống đủ mạnh mới có thể kháng cự lại ảnh hưởng từ trường của phôi thai.”
“Vậy thì ông khác gì bọn khốn trong Hội đồng quản trị? Nhóm Caesar chẳng khác nào một bầy cừu tự bước lên tế đàn! Mà kẻ dẫn dắt đàn cừu đến lễ tế lại chính là một con quỷ!”
“Quỷ? Ý ông là tôi sao?”
Schneider ngẩng đầu lên.
“Còn ai khác? Giờ tôi mới hiểu câu nói ấy nghĩa là gì! Đám người ở Bộ Trang bị là bọn điên, còn kẻ ở Bộ Chấp hành thì là lũ cuồng! Bộ Trang bị không hiểu giá trị sinh mạng, còn Bộ Chấp hành thì thản nhiên coi nhẹ nó!”
Manstein gầm gừ, “Trong mắt các người chỉ có cái nhiệm vụ chết tiệt kia thôi đúng không? Bao nhiêu người chết đi vì nó cũng mặc kệ chứ gì? Ông ngồi đây vờ ra vẻ u buồn, châm thuốc nhớ lại lũ học trò đã mất, nói toàn những lời cảm động. Nhưng khốn kiếp, chính ông lại đẩy một thế hệ học trò mới vào địa ngục! Nếu tôi là mẹ ông, tôi sẽ hối hận vì đã sinh ra một thằng súc sinh như ông!”
“Ông không thể là mẹ tôi, vì ông là đàn ông.”
Schneider lạnh lùng đáp.
“Manstein, đôi khi tôi thật sự ghen tị với ông. Ông và Guderian sống trong một thế giới trong sạch, không giống tôi và hiệu trưởng, những kẻ phải gánh lấy tội lỗi.”
“Gánh tội?”
“Đúng, là những kẻ nuốt hết tội lỗi vào mình. Trên đời này, không phải việc gì đúng cũng là công bằng, và cũng chẳng phải công bằng nào cũng là đúng. Có một bài toán ngụy biện như thế này: Ở chỗ đường ray phân nhánh, một bên có treo biển cảnh báo vì sẽ có tàu chạy qua, còn bên kia là đường ray bỏ hoang, không có cảnh báo. Giờ con tàu sắp đến. Trên đoạn ray có biển cảnh báo, có 100 đứa trẻ đang chơi, chúng chẳng buồn để ý gì. Còn trên đoạn ray bỏ hoang, chỉ có 1 đứa bé chơi một mình, nó tuân thủ quy định. Ông có thể kéo cần đổi hướng tàu. Ông có kéo không? Nếu ông không kéo, 100 đứa trẻ sẽ chết. Còn nếu ông kéo, chỉ 1 đứa bé bị nghiền nát, nhưng đó lại là đứa bé biết nghe lời.”
Schneider nhìn thẳng vào mắt Manstein.
“Thưa giáo sư thân mến, ông sẽ kéo chứ?”
Manstein chết lặng.
Ông không sao trả lời nổi.
Đúng là một trò ngụy biện chết tiệt, rốt cuộc thì cái gì quan trọng hơn:
Sự nghe lời hay sinh mạng?
Nếu không kéo, cái chết của 100 đứa trẻ sẽ biến thành nỗi đau không gì xoa dịu được của trăm gia đình.
Nhưng kéo thì sao nỡ giết 1 đứa bé vô tội?
Nó thậm chí còn có thể đã cố nhắc mọi người đừng chơi ở đoạn ray nguy hiểm…
Làm sao có thể nhẫn tâm để đứa bé ấy chết thay cho những kẻ sai lầm?
“Thời gian đã hết. Trong lúc ông còn do dự, 100 đứa trẻ kia đã bị nghiền nát rồi.”
Schneider thản nhiên nói.
“Ông chẳng hề chọn lựa, chỉ đứng nhìn mọi chuyện xảy ra.”
“Vậy ông sẽ chọn thế nào?”
Manstein khàn giọng hỏi.
“Tôi sẽ kéo cần. Dù tôi giết 1 đứa trẻ, nhưng tôi cứu được 100 đứa. Như thế tôi chính là kẻ gánh tội, tôi làm điều đúng, nhưng mang lấy tội ác. Tôi nuốt nó vào mình, để người khác còn giữ được sự thiện lương vô tội.”
“Ông chỉ ngụy biện thôi!”
Manstein quát.
“Không cần phải ngụy biện. Nếu ông không phải bạn tôi, tôi còn chẳng nói ra điều này.”
Schneider lắc đầu.
“Tôi đúng là đã đưa nhóm Caesar vào nhiệm vụ nguy hiểm, nhưng đó là lựa chọn không thể tránh. Chúng ta không thể để mặc phôi thai ấy nở ra trong cực uyên. Càng sớm ra tay càng tốt, trước khi nó sinh ra ý thức. Chần chừ chỉ khiến kẻ địch thêm thời gian chuẩn bị, đó là lời hiệu trưởng. Nếu nhóm Caesar vì thế mà diệt vong, tội ấy sẽ do tôi gánh.”
“Tôi cứ tưởng ít nhất ông sẽ nghĩ đến Sở Tử Hàng. Bấy lâu nay ông vẫn rất để tâm đến an nguy của cậu ấy.”
Manstein nói, giọng lạc đi trong tuyệt vọng.
“Sở Tử Hàng, Lộ Minh Phi hay Caesar… trong mắt Bộ Chấp hành, họ chỉ là những loại vũ khí khác nhau. Chúng tôi quan tâm vũ khí có nguyên vẹn hay không, nhưng nếu vì thế mà không rút kiếm, thì vũ khí còn giá trị gì? Còn nhớ cái phát xạ tôi gắn trong răng hàm của Sở Tử Hàng không?”
Schneider đẩy chiếc điện thoại về phía Manstein.
Trên màn hình là bản đồ Nhật Bản, một chấm đỏ nhấp nháy đều đặn.
Manstein gật đầu.
Phần 5:
“Là tôi đưa em ấy vào Cassell, nhưng ngay từ ngày nhập học tôi đã theo dõi mọi hành động của em ấy. Nếu có dấu hiệu mất kiểm soát, tôi sẽ không ngần ngại liệt vào danh sách nguy hiểm, lập tức cử người xử lý. Chỉ có quỷ dữ mới đủ tư cách quản lý Bộ Chấp hành, và những kẻ đi cùng tôi đều là kẻ điên. Thứ gắn kết chúng tôi không phải tình cảm, mà là mục tiêu chung. Từ xưa đến nay, Bí Đảng vốn dĩ là một tổ chức như vậy, đối thủ của chúng ta là loài rồng, một chủng tộc mạnh khủng khiếp. Nếu còn mang theo thứ tình cảm yếu mềm, thì chúng ta chỉ có con đường chết.”
“Nếu thật sự có thể hy sinh bất cứ ai để diệt rồng, vậy sao ông không tự chui vào tàu lặn mà đi?”
Schneider ngẩng đầu, lẳng lặng đặt chiếc đĩa sứ trắng lên bàn giữa hai người.
Trên đĩa chỉ còn bộ dao nĩa bạc.
Đột nhiên ông rút dao ăn, đảo tay đâm thẳng vào tim, rồi dằn mạnh xuống chuôi, lưỡi dao ngập sâu.
Ông lặng lẽ rít thuốc, mắt vẫn khóa chặt vào Manstein, không nói lời nào.
Trên ngực máu chảy, nhưng nét mặt ông không hề biến đổi, cứ như vết thương chưa từng tồn tại.
Manstein chết lặng, trợn mắt nhìn.
Một phút sau, Schneider kéo dao ra, vết thương đã bắt đầu liền lại, cơ bắp giữ chặt lấy lưỡi thép, phải giằng mới ra.
Ông không hề nhăn mặt, chẳng cảm thấy chút đau đớn nào.
“Ông bị ô nhiễm rồi…”
Manstein khàn giọng.
Schneider ném con dao vào đĩa, máu vấy đỏ, gằn giọng:
“Đúng. Tôi bị máu Cổ Long ăn mòn.”
Vết thương đã khép, cơ thịt đang hồi phục trông thấy.
“Trong 100.000 người, chỉ có 1 kẻ khi tiếp xúc máu rồng có thể sống sót và tiến hóa. Tôi lại chính là kẻ đó. Tôi còn sống sót từ đáy biển trở về vì ngay khoảnh khắc hít phải máu rồng, nó đã kích phát tiềm năng của tôi. Nhưng tôi vốn không đủ tư cách để tiếp nhận nó. Máu rồng vừa cường hóa vừa hủy hoại cơ thể tôi, khiến tôi suốt mười 11 năm nay sống trong đau đớn tận xương tủy. Người trong học viện có khả năng trở thành Tử thị nhất không phải Sở Tử Hàng, mà là tôi. Tôi không phải sợ xuống đáy biển, mà là thân thể này không chịu nổi. Trước mặt ông lúc này chỉ là một kẻ bệnh tật thoi thóp. Nếu không nhờ máu rồng níu giữ, tôi đã chết từ lâu rồi.”
“Hiệu trưởng biết chuyện này sao?”
“Ông ấy biết. Học viện đã xây dựng riêng cho tôi một phác đồ điều trị. Tôi phải thay máu hằng năm, nhưng máu rồng thì không bao giờ rửa sạch được. Tôi sống được bao lâu, chẳng ai biết.”
Schneider gõ nhẹ lên ngực mình.
“Bên cạnh mạch máu tim tôi gắn một quả bom nhỏ bằng máy tạo nhịp. Một khi tôi mất kiểm soát, nó sẽ phát nổ. Tôi sẽ ngã xuống trong một tiếng nổ khẽ, không gây phiền phức cho bất cứ ai.”
“Ngay cả với bản thân ông cũng tàn nhẫn thế sao?”
Manstein thì thầm.
“Muốn tàn nhẫn với người khác, trước hết phải học cách tàn nhẫn với chính mình. Nếu không thì chỉ là hạng hèn nhát.”
Schneider chậm rãi nói.
“Nhiều người nghĩ sau sự kiện Greenland, tôi sẽ mãi mãi rút lui, chôn mình trong nghiên cứu. Vì lần đó tôi mất đi 6 sinh viên, và chính bản thân cũng biến thành quái vật thế này. Họ cho rằng, kẻ từ địa ngục trở về sẽ phải biết quý trọng mạng sống. Nhưng tôi lại chọn ngồi vào ghế Trưởng Chấp hành. Tôi là kẻ duy nhất sống sót của đội Greenland. Những thanh niên rực rỡ như những bông hoa ấy đều đã chết, chỉ còn tôi ở lại. Nếu tôi sống như một thằng hèn nhát thì chẳng phải quá buồn cười sao?”
“Vậy nếu nhóm Caesar đi lại vết xe đổ của Greenland thì sao? Ông còn chịu nổi cảnh bao nhiêu sinh viên chết ngay trước mặt nữa không?”
“Đây là chiến trường của nhân loại và loài rồng. Trên chiến trường vốn dĩ là như vậy: nhân từ vô nghĩa chỉ khiến nhiều người chết thêm. Người lính đầu tiên ngã xuống ngay trước mặt ông, ông không có thời gian để hoảng sợ hay đau buồn, càng không thể vứt vũ khí chạy trốn. Ông chỉ có thể gào lên, hô những người khác xông lên cùng mình. Mỗi tấc đất dưới chân ông đều là máu và mạng sống của đồng đội. Nếu ông dừng lại, họ sẽ chết uổng phí. Người thứ hai ngã xuống, ông vẫn phải gào… Người thứ ba ngã xuống, ông vẫn phải gào… Đã bắt đầu xung phong thì không được quay đầu. Chỉ có hai kết cục: hoặc toàn quân bị diệt, hoặc chọc thủng trận địa địch. Với kẻ hèn nhát, thì chỉ có một kết cục thôi: toàn quân bị diệt!”
Manstein nhìn vào đôi mắt sáng rực đầy dữ tợn của Schneider, im lặng thật lâu rồi khẽ nói:
“Bạn tôi, ông càng lúc càng giống hiệu trưởng. Tôi có ảo giác như chính ông ấy đang đứng trước mặt, gầm lên rằng: ‘Tôi là kẻ cuối cùng của Hội Sư Tâm! Chỉ cần tôi còn chiến đấu, Hội Sư Tâm thuở ban đầu vẫn chưa kết thúc!’”
“Ông ấy từng nói vậy sao?”
Schneider cau mày.
“Không, ông ấy chưa từng nói như thế. Nhưng tôi lại có cảm giác đó. Trong vụ cảng Hamburg, toàn bộ thế hệ đầu tiên của Hội Sư Tâm bị xóa sổ, chỉ còn một mình ông ấy sống sót. Thứ nâng ông ấy dậy chính là thù hận. Bề ngoài thì là một lão già phong lưu, bên trong lại là con hổ bị thương, lúc nào cũng mài răng mài vuốt. Ông ấy muốn diệt sạch loài rồng, ai cản đường thì quét sạch, kể cả Hội đồng quản trị. Và ông ấy đủ sức làm điều đó. Các ông càng ngày càng giống rồng, càng ngày càng ít mùi vị của con người.”
“Ý ông là gì?”
Schneider lạnh lùng hỏi.
“Kiên nhẫn, bền bỉ, tàn nhẫn, sắc bén… nói là đức hạnh của con người thì chẳng bằng gọi thẳng ra là bản năng của loài rồng. Với tư cách chiến binh, rồng vốn đã hoàn mỹ. Con người thì khác, sinh ra vốn yếu đuối, biết sợ hãi, biết do dự, dễ bỏ cuộc. Nhưng ông và hiệu trưởng lại không cho phép mình có những nhược điểm đó, các người ép bản thân phải lạnh lùng, vô tình như rồng. Loại người như các ông càng ngày sẽ càng mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng càng cô độc, mạnh mẽ đến mức cô độc như chính loài rồng vậy.”
“Muốn đánh bại ác quỷ thì trước hết phải biến mình thành ác quỷ.”
“Nhưng như thế thì cho dù ông thắng cũng có ích gì? Đó đâu phải chiến thắng của ông, mà là chiến thắng của ác quỷ.”
Manstein nói, “Ông kể cho tôi câu chuyện của mình, vậy có muốn nghe câu chuyện của tôi không?”
“Nhóm Caesar vẫn đang chờ mệnh lệnh của tôi.”
“Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Không có bí mật gì ghê gớm, cũng chẳng có tình tiết éo le, chỉ là chuyện giữa tôi và ông bố ‘kỳ diệu’ của mình thôi.”
“Ông không nhắc thì tôi còn quên mất hiệu phó là cha ông.”
Schneider nói.
“Đúng vậy, giữa cha con tôi chẳng có điểm chung nào. Đứng chụp ảnh cạnh nhau trông còn gượng gạo. Tôi thì đã hói, còn ông ta lại thích thắt khăn lụa ở cổ, bảnh bao như cao bồi miền Tây.”
Manstein chậm rãi nói, “Quan hệ cha con thì chẳng thân thiết gì, cũng chẳng có chút tình cảm. Ông ta bỏ rơi tôi và mẹ từ khi tôi còn bé. Suốt đời ông ta chỉ biết sống như một con bò đực, hễ thấy ‘bò cái’ nào là lao tới. Tôi cũng chẳng biết ông ta đã qua lại với bao nhiêu phụ nữ, chắc chắn mẹ tôi không phải người ông ta yêu nhất. Có lẽ tôi ra đời chỉ vì một lần tránh thai thất bại. Mãi đến khi tôi vào học viện này mới gặp lại ông ta… nhưng cũng chẳng gọi là nhận nhau gì. Ông ta tự nhận mình là cha, đòi uống với tôi một ly, và tôi đã hất rượu thẳng vào mặt ông ta.”
“Vì ông ta chưa bao giờ làm tròn trách nhiệm người cha?”
Schneider hỏi.
“Chuyện nhận cha thực ra diễn ra thế này,” Manstein kéo từ cổ áo ra một cây thánh giá vàng đã cũ, “Đây là di vật của mẹ tôi, tôi luôn mang theo bên mình. Hôm đó trong tiệc chào đón giảng viên mới, lão già bỗng đặt tay lên vai tôi, nhìn chằm chằm vào cây thánh giá này rồi nói: ‘Ơ, chẳng phải mặt dây chuyền của cô Martha ngực nở sao?’ Tôi hỏi sao ông biết tên mẹ tôi, ông ta lại bảo: ‘Ra là mẹ cậu à? Ôi trời, thật là trùng hợp! Nếu trong thời gian quen tôi mà cô ấy không qua lại với thằng khác thì chắc cậu là con tôi rồi! Không ngờ lại gặp được cậu trong dịp này, chúng ta phải uống một ly thôi!’ Nếu ông là tôi thì sẽ làm gì?”
“Ông không đập cả cái ly vào mặt ông ta thì đúng là quá nhẫn nhịn.”
Schneider đáp.
“Đúng thế. Tôi nhớ lại những năm tháng theo mẹ nay đây mai đó trên chiếc xe bán tải đời 1963, chẳng có một chỗ ở ổn định. Để nuôi tôi, mẹ phải chịu đủ loại sỉ nhục từ đám đàn ông. Vì thường xuyên chuyển chỗ, tôi không có bạn bè, chỉ có lũ côn đồ địa phương bắt nạt, thậm chí có lần dồn tôi vào ngõ nhỏ rồi cùng nhau tè lên người tôi. Lẽ ra khi ấy tôi phải có một người cha đứng ra dạy cho bọn chúng một bài học. Nhưng tôi cắn răng không kể với mẹ, vì mẹ đã quá mệt rồi, tôi chỉ muốn bà có thể ngủ một giấc yên bình sau giờ làm. Còn lão hiệu phó thì lúc đó chắc đang lăn lộn trên giường với một ‘con bò cái’ nào đó. Tôi đã trông mong ông ta suốt 30 năm, chỉ để đổi lấy một câu ‘Thật là trùng hợp, cha con mình đúng là nên uống một ly’. Thế nên tôi không chỉ hắt rượu mà còn xô ngã ông ta, cuối cùng phải nhờ hiệu trưởng kéo ra. Cả bữa tiệc hôm đó biến thành trò cười. Tôi đã nghĩ mình chẳng thể ở lại học viện. Ngày đầu tiên nhậm chức đã hắt rượu vào mặt hiệu phó, dù ông ta không để bụng thì tôi cũng chẳng muốn ngày nào cũng nhìn thấy ông ta. Ngày hôm sau, tôi định đến xin từ chức, thì bất ngờ thấy một cái thùng carton lớn đặt trước cửa phòng. Trong đó là đủ loại đồ chơi: máy game, đĩa game, xe điều khiển, xe đạp nhỏ, cả bộ ‘Tuổi thơ vàng của Scarry’. Kèm theo một bức thư: ‘Con trai yêu, cha biết con thiếu thốn tình cha từ nhỏ, đó là lỗi của cha. Để bù đắp cho tuổi thơ, ta tặng con tất cả quà sinh nhật mà con từng bỏ lỡ. Hãy vui vẻ lên nhé! Cha yêu dấu của con’. Mặt sau còn viết thêm mấy chữ: ‘Tối nay ta sẽ đưa vài cô gái xinh đẹp tới chung vui’. Hóa ra lão già đó đã chạy cả đêm tới siêu thị Toys ‘R’ Us ở Chicago, mua nguyên một thùng đồ chơi để làm lành với tôi.”
“Thật là… ngoài sức tưởng tượng.”
Schneider nói.
Tuy không hiểu vì sao Manstein bỗng lôi chuyện này ra, nhưng nghe kể mấy giai thoại về hiệu phó thì quả thật khiến người ta thấy hứng thú.
Lão hiệu phó đúng là một nhân vật bí ẩn, e rằng chỉ có Anjou mới nắm rõ con người thật của ông ta.
“Hiệu trưởng giữ lại đơn từ chức của tôi, bảo tôi suy nghĩ thêm. Sau đó có người gõ cửa phòng. Lão già kia tay xách hai chai whisky, ôm theo mấy cô nữ sinh xinh đẹp nhất khóa mới. Ông ta vui vẻ vỗ ngực tôi rồi hô: ‘Này các cô, đây là con trai ta đấy, giống ta như đúc đúng không?’ Sau đó ông ta úp cái cốc giấy vàng lên đầu tôi làm mũ sinh nhật, bắt các cô gái chụp ảnh chung, còn tuyên bố tối nay sẽ tổ chức lại tiệc mừng sinh nhật 18 tuổi cho tôi. Theo ông ta, lễ thành nhân thì nhất định phải có chân dài xinh đẹp, nếu thêm một ‘phát yêu thương’ nữa thì quá hoàn hảo! Tôi cầm lấy chai rượu, mở nắp, rồi dội cả chai lên đầu ông ta.”
“Ờ…”
Schneider đáp, thật sự quá chán nản.
Ông cũng chẳng biết dùng từ gì để diễn tả tâm trạng của mình lúc đó.
Phần 6:
“Thế nhưng ông ta lại không bỏ cuộc. Người ta nói với phụ nữ ông là kiểu ‘ăn không được thì bỏ chạy’, chẳng bao giờ muốn mất nhiều thời gian, vậy mà với tôi ông ấy rất kiên nhẫn. Có lúc bữa sáng tôi thấy trên bàn có thêm một quả trứng ốp hai mặt, hỏi đầu bếp mới biết là hiệu phó ghé bếp khi thị sát rồi tiện tay giúp tôi rán. Ông ấy còn gửi email cho hội đồng quản trị, tâng bốc rằng giảng viên trẻ Manstein xuất sắc quá, nên thăng ngay từ trợ lý lên phó giáo sư… Hội đồng biết rõ tôi là con ông ta mà vẫn đồng ý. Với hội đồng, gã dị hợm kia khó chiều nhưng là chuyên gia luyện kim hữu dụng, nếu cho con gã thăng chức để mua chuộc thì lợi cả đôi đường. Có người còn bí mật trả tiền thuê nhà trong khu nội trú cho tôi, tôi gọi lên Bộ Tài vụ thì được trả lời: ‘Hiệu phó đã trả thay ông, và đặc biệt dặn đừng nói cho ông biết.’”
“Đã bị dặn đừng nói, mà họ lại kể hết cho ông sao?”
Schneider nói.
“Tôi đoán câu dặn thật ra là: ‘Nói với con trai yêu dấu của ta rằng hiệu phó đã trả, và nhớ bảo là ta đã đặc biệt dặn các người tuyệt đối đừng nói cho nó biết.’”
Manstein cười cay.
“Hiểu rồi.”
“Ông còn mời tôi cùng làm giám khảo môn bơi. Ông thích làm giám khảo cực kỳ vì mấy cô nữ sinh đều mặc bikini. Hình dung mà xem: cha ngồi sau lưng con, tỏa mùi hormone lão già, háo hức chỉ tay: ‘Em kia ngực nảy, em kia mông cong, con phải theo đuổi kiểu con gái ấy, họ mới là người đàn bà hạng nhất.’”
“Tôi cứ tưởng các ông bố hay muốn con trai lấy vợ hiền lành, nhu mì cơ mà,” Schneider nói.
“Không, thằng cha tôi lại bảo: nghĩa tình nghìn cân không bằng ngực bốn lạng.”
Manstein nói, giọng mỉa mai.
“Cách ông nịnh bợ thật ngớ ngẩn, làm sao bù đắp nổi nỗi khổ tôi đã chịu? Hồi nhỏ tôi vì tính khác thường bị nhốt vào viện tâm thần dành cho trẻ em, ở đó tôi quen Guderian. Không ai đến thăm, mẹ tôi ốm nặng. Vì không có khách tới, mấy y tá đối xử với tôi và Guderian rất tệ, chỉ cần Guderian lấy thêm chút đồ ăn là bọn họ liền đá đạp, đánh đập chúng tôi. Tôi thề sẽ không tha cho kẻ bỏ rơi tôi và mẹ, nếu gặp lại, tôi sẽ đá vào háng thằng đó như một võ sĩ Muay thực thụ.”
“Ừm,” Schneider đáp.
“Rồi một đêm, lão cha biến thái gửi cho tôi một lá thư dài,” Manstein kể.
“Trong thư ông ta thừa nhận không thể bù đắp vết thương tuổi thơ, nhưng xin được giải thích lý do rời bỏ mẹ con tôi: ông không hề yêu mẹ tôi, đời ông ta chỉ là mê mải với đàn bà, tôi ra đời do một lần tránh thai thất bại….”
“Nghe như muốn đổ thêm dầu vào cơn thịnh nộ của ông,” Schneider ngắt lời.
“Ông kể tiếp về những trò thú tính ngày xưa, liệt kê đủ loại đàn bà ông ta từng tán tỉnh, kể cả những chuyện tàn nhẫn kinh khủng: thấy kẻ yêu hắn nhảy từ tháp cao chết thảm mà ông vẫn thản nhiên. Rồi ông ta viết: ‘Nhưng con biết không, cha luôn mang trong lòng một nỗi sợ, cha không giống người bình thường.’ Ông nói rằng khi mình đi giữa đám đông, ông cảm thấy mình như một con sói giữa bầy chiên, với lợi thế huyết thống, ông ta có thể dễ dàng chinh phục bất cứ ai, không luật lệ nào cầm chân được ông, thế giới này đầy chiên non, còn ông ta là con sói duy nhất, muốn ăn thịt cả đàn, ông không yêu phụ nữ, trong mắt ông họ chỉ là những con chiên mà ông tận hưởng.”
“Rồi sao nữa?”
Schneider hỏi.
“Ông ta bảo khi phát hiện có một đứa con, đột nhiên trở nên nhỏ nhẹ. Nói là ông quan tâm tới cảm xúc tôi, để ý từng biểu hiện, ông ta bỗng trở nên thận trọng, làm mọi chuyện để khiến tôi vui, thậm chí giả vờ trèo bò làm ngựa cho con chơi, vừa bò vừa phát ra tiếng ‘thùm thụp’ như tiếng vó ngựa. Ở cuối thư, ông ghi: ‘Lần đầu trong đời, cha cảm thấy mình bị ràng buộc, không phải bởi luật lệ, mà bởi con trai. Cha chợt như con người, dù chỉ có một thằng con hói, nỗi sợ hãi trong lòng cha sau bao nhiêu năm cũng tan biến, và cha cảm thấy hân hoan.’”
“Vui vì bị ràng buộc sao?”
Schneider trầm ngâm lâu mới nói.
“Sau vụ Greenland, ông nhiều năm không hướng dẫn sinh viên nào nữa, vậy mà ông vẫn nhận Sở Tử Hàng làm học trò hướng dẫn,” Manstein hỏi, “chỉ vì huyết thống cậu ta tốt sao?”
“Không,” Schneider đáp, nhớ lại đôi mắt vàng cô độc của Sở Tử Hàng dưới mưa, “là vì em ấy quá lì lợm. Tôi không thể từ chối.”
“Lì thế nào?”
“Em ấy là hỗn huyết chủng tự tìm đến học viện chứ không phải học viện tìm đến em ấy. Tôi quyết định đến Chicago phỏng vấn trực tiếp, nhưng vẫn còn nghi ngờ, nên hẹn gặp em ấy dưới một cây cầu sắt ít người qua lại, nếu đáng ngờ, tôi có thể xử lý ngay, khống chế hoặc thủ tiêu mà chẳng ai biết. Tôi còn quấn trong áo một khẩu Beretta. Mưa tầm tã, em ấy đứng dưới đèn giao thông, tay kéo theo chiếc hành lý lủng lẳng. Chúng tôi nhìn nhau từ hai phía đường, em ấy biết tôi là ai nhưng không tiến tới. Chúng tôi như hai con sói cô độc đối diện nhau, không tiến lại gần, chỉ quan sát. Đèn đỏ đổi ba lần, vẫn chẳng ai nói lời nào. Ánh mắt em ấy kiên quyết và cô độc, tôi thấy em ấy có ý muốn bước đến bên tôi, vì tôi chính là người em ấy kiếm suốt nhiều năm, nhưng em ấy tuyệt đối không tiến tới nếu tôi không ra tín hiệu.”
Schneider thở dài, “Cuối cùng tôi vẫy tay, bị rơi vào thế không còn đường lùi bởi ánh mắt của một đứa bé, lúc ấy tôi nghĩ: hoặc giết nó, hoặc mời nó đi cùng. Không còn lựa chọn nào khác.”
“Vậy rốt cuộc ông mời cậu ta là mời một thanh kiếm, hay mời một cậu bé?”
Schneider im lặng rất lâu rồi mới đáp:
“Ông nói cái gì ngốc thế? Tôi sao có thể coi một con người như một món vũ khí vô tri vô giác được? Đôi khi tôi cũng từng nghĩ, giá mà em ấy có thể lớn lên như một người bình thường… Nhưng chúng tôi gặp nhau trên chiến trường, tôi chỉ có thể dạy em ấy cách dùng vũ khí mà thôi.”
“Ông không phải hạng người hoàn toàn lạnh lùng vô tình. Ông dọn sạch phòng điều khiển trung ương rồi ngồi hút thuốc một mình, đó là vì trong lòng bất an.”
Manstein nói.
“Ông đang do dự, ông lo lắng cho an toàn của đội lặn. Nếu đã thế, tại sao các ông còn vội vàng phát động chiến dịch? Schneider, hãy nói thật với tôi. Ông nên hiểu tôi thà tin ông còn hơn tin Hội đồng quản trị. Ông dù có điên rồ, thì bọn họ càng nhiều thủ đoạn mờ ám hơn.”
“Thái tử. Là Thái tử.”
Schneider lặng đi một hồi rồi khẽ nói.
“Thái tử?”
“Sau sự kiện ở Greenland, cái ID mang tên ‘Thái tử’ biến mất hoàn toàn khỏi mạng lưới. Không ai từng gặp hắn, chỉ biết đó là một thợ săn xuất sắc. Học viện nghi ngờ những mảnh đồng và tọa độ hắn gửi cho chúng ta chỉ là mồi nhử, hắn tung ra những bức ảnh đó để dẫn chúng ta tới biển băng Greenland tìm cái phôi thai kia. Mãi đến gần đây, ID ‘Thái tử’ mới xuất hiện trở lại. Hắn công bố một phần tài liệu mật của Ủy Ban Quốc Gia, liên quan đến chiến hạm Lenin. Ủy Ban cho rằng, trước khi Liên Xô tan rã, từng có một viện nghiên cứu ở phía bắc Siberia chuyên về sinh vật chưa biết và sức mạnh siêu nhiên, rồi viện đó đột nhiên bị phá hủy. Trước thời điểm nó nổ tung, chiến hạm Lenin tình cờ có mặt ở vùng biển gần đó, rất có thể đã mang theo thứ gì quan trọng rời đi. Từ đó, con tàu ấy giống như đang chạy trốn, một mạch hướng về Nhật Bản.”
Schneider nói, “Đó là lý do chúng tôi bắt đầu chú ý đến con tàu đắm.”
“Nhỡ đâu lại là mồi nhử khác, các ông sao còn cắn câu?”
“Chỉ cần xác định đó đúng là một phôi thai, chúng tôi tuyệt đối không thể để nó nở ra. Chúng tôi không còn thời gian do dự. Càng kéo dài, tỷ lệ phôi thai nở càng cao. Một khi nó có được ý thức tự chủ, thì đã quá muộn. Đội lặn sẽ gặp phải thảm cảnh giống như đội Greenland. Ở biển Greenland, chúng tôi không bắt được con rồng non, nhưng có lẽ đã gián đoạn quá trình nở, nên đến nay nó vẫn chưa thành niên. Hẳn là nó đã ẩn mình ở một góc tối nào đó trên thế giới, tiếp tục tạo kén. Thái tử dường như vẫn luôn làm cùng một việc: hắn tìm ra nơi phôi thai cổ long sắp nở, rồi nhử chúng ta đến tiêu diệt nó. Đổi lại, chúng ta phải trả giá đắt, thậm chí là bằng mạng sống. Nhưng đó là sứ mệnh của Bí Đảng. Dù biết đó là mồi, chúng ta vẫn buộc phải nuốt. Chúng tôi đoán, 11 năm trước, hành động quá muộn, có lẽ chỉ trong vài tháng quan sát ấy, phôi thai đã sản sinh ý thức. Khi đó, con rồng non có thể phá kén bất cứ lúc nào. Nếu sớm hơn, nhanh hơn, có lẽ đội Greenland đã thành công.”
“Thái tử chẳng được lợi lộc gì từ chuyện này, đúng không?”
“Đúng. Hắn không được gì cả. Nói theo một nghĩa nào đó, hắn là đồng minh trong bóng tối của chúng ta, dù hắn chưa bao giờ trực tiếp tham chiến.”
Schneider nói.
“Chính vì vậy chúng ta không dám chờ đợi. Để giảm rủi ro, hiệu trưởng ra lệnh cho Bộ Trang bị cung cấp mức hỗ trợ kỹ thuật cao nhất, đồng thời để Sở Nghiên cứu Ganryu vốn chẳng kém gì Bộ Trang bị tham gia hỗ trợ tại hiện trường. Theo lời Bộ Trang bị, ngay cả khi phôi thai nở, chúng ta vẫn có khả năng lớn để rút lui từ đáy biển. Ngoài ra, tôi còn tự làm thêm một thứ nhỏ, một hệ thống cảnh báo.”
Schneider bật màn hình lớn.
Giữa màn hình hiện ra thanh tiến trình nổi bật, những công thức tính toán phức tạp cuồn cuộn chạy từ dưới lên:
“Tôi phân tích tín hiệu tim của phôi rồng ở Greenland. Càng gần lúc nở, cường độ và tần suất nhịp tim biến đổi rõ rệt. Dựa vào đó, tôi thiết kế phần mềm này, giám sát nhịp tim để tính toán tỷ lệ nở. Hiện tại, tỷ lệ nở là 32%, vẫn ở vùng an toàn, hiển thị màu xanh. Nhưng nếu phôi thai cảnh giác, nó có thể cưỡng ép tăng tốc quá trình. Một khi tỷ lệ tăng vọt, tàu Maniakh sẽ lập tức dùng móc an toàn kéo tàu Trieste lên khỏi đáy biển.”
“Do chính ông thiết kế?”
“Chuyện thế này không thể giao cho lũ thần kinh ở Bộ Trang bị.”
Schneider nhếch môi.
“Họ chỉ nên làm đúng phần việc của họ là đủ.”
Manstein lấy tấm thẻ đen từ khe cắm, đẩy đến trước mặt Schneider:
“Đặt an toàn của đội lặn lên trên việc tiêu diệt phôi thai. Nếu ông đồng ý, tôi sẽ không ngăn cản chiến dịch Long Uyên nữa, thậm chí đưa thẻ đen cho ông, nó sẽ cho ông toàn quyền 100% sử dụng Norma.”
“Ông đến đây theo ủy thác của Hội đồng quản trị. Nếu không đình chỉ chiến dịch Long Uyên, ông cũng sẽ bị liên lụy, phải không?”
Schneider hỏi.
“Thì tôi sẽ ôm hết tội vào mình. Trong mắt ông, tôi chỉ là một nhân viên hành chính, quanh năm xử lý sổ sách và kỷ luật sinh viên. Quả thật, huyết thống lẫn năng lực của tôi đều tầm thường, chẳng thể so với lão cha già biến thái của tôi. Nhưng nếu là một kẻ gánh tội, tôi đủ tư cách. Tội này, tôi sẽ nghĩ cách nuốt xuống.”
Manstein chìa tay ra.
“Thực ra ông tới đây chỉ để moi sự thật, phải không?”
Schneider nhìn thẳng vào mắt ông.
“Từ đầu đến cuối, ông chỉ muốn tôi cho ông một lý do. Chỉ cần tôi tìm được một lời giải thích hợp lý, ông sẽ ép xuống mệnh lệnh của Hội đồng.”
“Tôi chỉ muốn chắc rằng ông thật sự quan tâm đến tính mạng bọn trẻ. Rằng quyết định này không phải sự liều lĩnh vô trách nhiệm, mà là kết quả của việc ông đã làm hết sức nhưng vẫn buộc phải thế.”
Manstein khẽ thở dài.
“Nếu không còn lựa chọn nào khác, thì một kẻ hành chính như tôi cũng chẳng ngại phải trả giá.”
“Vậy thì… giao kèo thành.”

